A DI ĐÀ SỚ SAO
Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
TẠNG GIÁO ÐẲNG NHIẾP (phân ra làm ba phần):
1. Tạng Nhiếp: Kinh này thuộc về tạng nào?
2. Giáo Nhiếp: Kinh này thuộc về giáo nào?
3. Phần Nhiếp: Kinh này thuộc về phần nào?
1. TẠNG NHIẾP CHÁNH VĂN:
Ðã biết Phật nói kinh nầy có nguyên nhân như thế; nhưng chưa biết kinh đây đối trong Phần Tạng Giáo nó thuộc về đâu ?
Nói về Tạng có hai:
1. Tam Tạng;
2. Nhị Tạng. Trước nói:
1. Tam Tạng là:
a) Tạng Tu Ða La .
b) Tạng Tỳ Nại Da .
c) Tạng A Tỳ Ðạt Ma .
Nay kinh đây (Di Ðà) thuộc về Tạng Tu Ða La. Bởi các kinh cũng đều có thân thuộc lẫn nhau, nhưng kinh Di Ðà đây không phải như các kinh kia.
CHÚ GIẢI:
Tiếng Phạm nói: Tu Ða La. Tàu dịch: Khế Kinh, tức là tạng Kinh, sẽ giải thấy trong đề mục văn sau. Tỳ Nại Da, Tàu dịch là "Ðiều Phục", tức là tạng Luật. A Tỳ Ðạt Ma, Tàu dịch là: "Ðối Pháp", tức là tạng Luận. Hai tạng trên đều có nhiều nghĩa, ở đây không cần lắm nên không dẫn giải. Thuộc về Tu Ða La là ở trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận, mà kinh Di Ðà đây thuộc về tạng Kinh . "Lẫn thuộc nhau" là như kinh Hoa Nghiêm thuộc về tạng Kinh mà gồm cả tạng Luật và Luận, vì trong các phẩm Thập Tạng nói rõ về việc Giới Luật; còn các phẩm Vấn Minh nói rõ về Luận Nghị. Kinh Phạm Võng thuộc về tạng Luật mà gồm cả tạng Kinh, vì phần trên của phẩm Tâm Ðịa rộng nói ngôi bực của các vị Bồ Tát. Còn kinh khác so theo đây nên biết. Kinh đây đã chẳng gồm giới luật lại cũng không kiêm luận nghị, vì từ đầu chí cuối, chuyên nói về pháp môn niệm Phật, cầu sanh Tịnh Ðộ, nên nói kinh đây, không phải như các kinh kia.
(29)
1. Tạng Nhiếp: Kinh này thuộc về tạng nào?
2. Giáo Nhiếp: Kinh này thuộc về giáo nào?
3. Phần Nhiếp: Kinh này thuộc về phần nào?
1. TẠNG NHIẾP CHÁNH VĂN:
Ðã biết Phật nói kinh nầy có nguyên nhân như thế; nhưng chưa biết kinh đây đối trong Phần Tạng Giáo nó thuộc về đâu ?
Nói về Tạng có hai:
1. Tam Tạng;
2. Nhị Tạng. Trước nói:
1. Tam Tạng là:
a) Tạng Tu Ða La .
b) Tạng Tỳ Nại Da .
c) Tạng A Tỳ Ðạt Ma .
Nay kinh đây (Di Ðà) thuộc về Tạng Tu Ða La. Bởi các kinh cũng đều có thân thuộc lẫn nhau, nhưng kinh Di Ðà đây không phải như các kinh kia.
CHÚ GIẢI:
Tiếng Phạm nói: Tu Ða La. Tàu dịch: Khế Kinh, tức là tạng Kinh, sẽ giải thấy trong đề mục văn sau. Tỳ Nại Da, Tàu dịch là "Ðiều Phục", tức là tạng Luật. A Tỳ Ðạt Ma, Tàu dịch là: "Ðối Pháp", tức là tạng Luận. Hai tạng trên đều có nhiều nghĩa, ở đây không cần lắm nên không dẫn giải. Thuộc về Tu Ða La là ở trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận, mà kinh Di Ðà đây thuộc về tạng Kinh . "Lẫn thuộc nhau" là như kinh Hoa Nghiêm thuộc về tạng Kinh mà gồm cả tạng Luật và Luận, vì trong các phẩm Thập Tạng nói rõ về việc Giới Luật; còn các phẩm Vấn Minh nói rõ về Luận Nghị. Kinh Phạm Võng thuộc về tạng Luật mà gồm cả tạng Kinh, vì phần trên của phẩm Tâm Ðịa rộng nói ngôi bực của các vị Bồ Tát. Còn kinh khác so theo đây nên biết. Kinh đây đã chẳng gồm giới luật lại cũng không kiêm luận nghị, vì từ đầu chí cuối, chuyên nói về pháp môn niệm Phật, cầu sanh Tịnh Ðộ, nên nói kinh đây, không phải như các kinh kia.
(29)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
CHÁNH VĂN:
Nhị Tạng là: a) Bồ Tát tạng. b) Thinh văn tạng.
Nay kinh Di Ðà đây thuộc về Bồ Tát tạng; các kinh cũng có lẫn thuộc nhau, nhưng kinh đây không phải như các kinh kia.
CHÚ GIẢI:
Tạng Bồ Tát và Tạng Thinh Văn sẽ thấy rõ trong phần "Thích Văn" sau có giải. Tạng mà phân làm hai là do vì tạng Kinh có Ðại thừa, Tiểu thừa nên phân ra làm hai hạng để thâu thuộc, đó là pháp. Nếu ước về người thì có ba bực (tam thừa), cũng phải phân ra ba tạng. Vì bực người Duyên Giác phần nhiều chẳng nương nơi kinh giáo nên gồm trong bực người Thinh Văn, cho nên chỉ có hai tạng. Nay thuộc về Bồ Tát tạng là vì kinh đây diễn nói pháp Ðại thừa, như: y báo, chánh báo đều trang nghiêm, tín, nguyện vãng sanh v.v... tất cả đều là hạnh tự lợi, lợi tha, là bổn phận của Bồ Tát, để giáo hóa chúng sanh, làm cho cõi Phật được thanh tịnh. “Lẫn thuộc” là như kinh Hoa Nghiêm thuộc về tạng Bồ Tát, cũng gồm cả Thinh Văn tạng, vì kinh kia bao hàm tất cả các bực. Kinh Di Ðà đây bực nhị thừa chẳng đặng vãng sanh (cõi Tịnh Ðộ) nên nói “không phải như các kinh kia”. Có người hỏi: Thế sao trong văn kinh nói: Ðức Phật Di Ðà kia có chúng đệ tử Thinh Văn ? Ðáp: Ðây chỉ tạm có, chớ rốt thì không, đến sau trong phần Thích Văn sẽ biện rành. Lại hỏi: Chán bỏ cảnh khổ, tìm về cảnh vui, dường như riêng về phần tự lợi, đâu phải hạnh Bồ Tát? Ðáp: Cầu sanh về Tịnh Ðộ chính là để thấy Phật nghe pháp, đặng vô sanh nhẫn rồi, trở lại cõi này cứu khổ chúng sanh; ấy là hành hạnh Bồ Tát, chớ không phải cái đạo của Thinh Văn như trong bộ Thập Nghi Luận ngài Thiên Thai đã nói.
(30)
Nhị Tạng là: a) Bồ Tát tạng. b) Thinh văn tạng.
Nay kinh Di Ðà đây thuộc về Bồ Tát tạng; các kinh cũng có lẫn thuộc nhau, nhưng kinh đây không phải như các kinh kia.
CHÚ GIẢI:
Tạng Bồ Tát và Tạng Thinh Văn sẽ thấy rõ trong phần "Thích Văn" sau có giải. Tạng mà phân làm hai là do vì tạng Kinh có Ðại thừa, Tiểu thừa nên phân ra làm hai hạng để thâu thuộc, đó là pháp. Nếu ước về người thì có ba bực (tam thừa), cũng phải phân ra ba tạng. Vì bực người Duyên Giác phần nhiều chẳng nương nơi kinh giáo nên gồm trong bực người Thinh Văn, cho nên chỉ có hai tạng. Nay thuộc về Bồ Tát tạng là vì kinh đây diễn nói pháp Ðại thừa, như: y báo, chánh báo đều trang nghiêm, tín, nguyện vãng sanh v.v... tất cả đều là hạnh tự lợi, lợi tha, là bổn phận của Bồ Tát, để giáo hóa chúng sanh, làm cho cõi Phật được thanh tịnh. “Lẫn thuộc” là như kinh Hoa Nghiêm thuộc về tạng Bồ Tát, cũng gồm cả Thinh Văn tạng, vì kinh kia bao hàm tất cả các bực. Kinh Di Ðà đây bực nhị thừa chẳng đặng vãng sanh (cõi Tịnh Ðộ) nên nói “không phải như các kinh kia”. Có người hỏi: Thế sao trong văn kinh nói: Ðức Phật Di Ðà kia có chúng đệ tử Thinh Văn ? Ðáp: Ðây chỉ tạm có, chớ rốt thì không, đến sau trong phần Thích Văn sẽ biện rành. Lại hỏi: Chán bỏ cảnh khổ, tìm về cảnh vui, dường như riêng về phần tự lợi, đâu phải hạnh Bồ Tát? Ðáp: Cầu sanh về Tịnh Ðộ chính là để thấy Phật nghe pháp, đặng vô sanh nhẫn rồi, trở lại cõi này cứu khổ chúng sanh; ấy là hành hạnh Bồ Tát, chớ không phải cái đạo của Thinh Văn như trong bộ Thập Nghi Luận ngài Thiên Thai đã nói.
(30)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
2. GIÁO NHIẾP CHÁNH VĂN:
Giáo là y theo Ngài Hiền Thủ định phân giáo pháp có năm phần là: Tiểu, Thỉ, Chung, Ðốn và Viên. Nay kinh Di Ðà đây thuộc về Ðốn Giáo, mà cũng gồm cả hai giáo trước là Chung và Viên.
CHÚ GIẢI:
Năm giáo là:
1. Tiểu thừa giáo: Nói pháp chỉ chuyên nói "Nhơn Không", (91) dầu có luận nói "Pháp Không" chút ít, nhưng cũng chẳng mấy rõ ràng; vì y nơi lục thức, tam độc để thành lập cái căn bổn Nhiễm, Tịnh, (92) nên chưa tột thấu nguồn gốc của "Pháp Không" (93).
2. Ðại thừa Thỉ Giáo: Do thời thứ hai chỉ nói "Pháp Không", thời thứ ba nói cả ba thừa, nhưng không hứa “định tánh Xiển Ðề" (94) được thành Phật, là lời thuyết pháp chưa tột chỗ cực điểm của bực Ðại thừa, nên gọi là Thỉ Giáo. Trong đó có người thành Phật, có người không thành Phật, nên lại gọi là: Phần giáo. Với chỗ nói thì phần nhiều nói về Pháp tướng, ít luận đến pháp tánh. Dầu có nói tánh, cũng còn là con số tướng. Bởi y nơi tám thức sanh diệt để kiến lập ra các nghĩa loại có nguyên nhơn: Sanh tử và Niết Bàn.
3. Ðại thừa Chung giáo: Do chỉ ra lý diệu hữu của Trung Ðạo nên nói “định tánh xiển đề" đều sẽ thành Phật, mới nói tột chỗ cực điểm của Ðại thừa, nên gọi là Chung giáo. Vì đúng với thật lý nên lại gọi là Thật giáo. Với chỗ nói thì phần nhiều luận về pháp tánh, ít luận đến pháp tướng. Dầu có nói đến "tướng" đi nữa, nhưng cũng hội về "tánh". Bởi căn cứ nơi Như Lai Tạng tánh nó tùy theo vọng duyên của tám thức để thành lập ra các nghĩa.
4. Ðốn giáo: Giáo này hoàn toàn không nói đến pháp tướng chỉ nói ròng về Chơn Tánh, hễ là nhứt niệm bất sanh tức gọi là Phật chứ không trải qua thứ lớp từng bực gì nữa.
5. Viên giáo: Giáo này thống nhứt cả bốn giáo trước, Sự, Lý hoàn toàn trọn vẹn. Bởi lập trường lý luận như thế này: Pháp giới nhiều vô cùng tận, biển tánh trọn vẹn hợp hòa, không ngăn ngại nhau; với nhơn duyên sanh khởi vì một tức tất cả; tất cả tức một, tướng tức tánh, tánh tức tướng, tánh tướng nhiếp lẫn nhau. Như cái lưới ngọc (95) của trời Phạm Vương mỗi ảnh chiếu trùng nhau, thay nhau làm chủ quan, khách quan bằng cách nhiều đến vô cùng vô tận. Năm giáo nói trên rõ như trong lời Huyền Ðàm kinh Hoa Nghiêm; ở đây sợ nhiều không dẫn. Kinh này thuộc về "Ðốn Giáo". Trong môn nghĩa lý sau có giải. Cũng gồm cả trước sau hai giáo là trước thông Chung giáo bởi do tất cả chúng sanh niệm Phật dù là định tánh Xiển Ðề đều sẽ làm Phật. Sau gồm "Viên giáo" là cũng trong môn nghĩa lý có giải.
CHÚ THÍCH
91). Nhơn không, lại tên là Sanh không, Ngã không: nghĩa là quán sát cái thân con người là do năm uẩn mượn lẫn nhau để hòa hợp làm một cái nhơn tướng, lại là do nơi nhơn duyên cũng như đủ điều kiện mới sanh thành ra được bằng cách giả dối. Vì biết trong đó nó chẳng có cái ngã thể là "thường" hay "nhứt" gì hết nên nói là "nhơn không". Chứng nhận được lẽ chơn không rồi, nhơn đó đoạn được tất cả phiền não, rốt đắc quả Niết Bàn, đó là chỗ cực điểm của Tiểu thừa giáo. Bên Ðại thừa lập ra cái lý: Tất cả pháp "sự vật" đều có cái tánh Chơn Như, rằng không cái chấp nhơn ngã (đối với pháp ngã) đó, là nói nhơn không để rõ tánh Chơn Như. Sách Khổng Chương Mục nói: “Ðến không còn ngã chấp là rõ bày tánh Chơn Như, gọi là nhơn không”.
92). Căn bản tịnh nhiễm do nơi tam độc là tham, sân, si làm "căn bản" vô minh; vô minh sanh ra 12 nhơn duyên, tùy thuận tạo ra thập thiện là "tịnh", thập ác là "nhiễm", vì có chấp ta làm thiện, làm ác. Lại hành thập thiện bằng hữu tướng là nhiễm, vô tướng là tịnh, tịnh là vô lậu, vô lậu chỉ tự lợi là Thanh Văn, vô lậu mà lợi tha là Bồ Tát, vì không luôn cả pháp không nữa.
93). Pháp không là không còn chấp pháp, từ trong thâm tâm cho đến ngoài là quốc độ, tất cả sự vật hiện tượng đều không chấp nhứt, phân biệt làm cảnh sở hữu ngoài tánh chơn như. Thế là đều không luôn cả cu sanh pháp chấp, phân biệt pháp chấp kêu là "Ðộ sanh vô tướng... hành thí vô ngã”. Tức là: Vô ngã, vô nhơn; vô chúng sanh; vô thọ giả.
94). Ðịnh tánh xiển đề: Ðịnh tánh người có cái chủng tử (tánh) duy nhứt (định) xiển đề; kêu đủ là nhứt xiển đề, dịch là chẳng đủ đức tin, là nghĩa bất thành Phật. Lại có hai nghĩa: 1. Ðoạn thiện xiển đề, dấy lòng đại tà kiến, dứt hẳn tất cả căn lành, vì bác bỏ hết thảy việc lành. 2. Ðại bi xiển đề: Bồ Tát có cái tâm đại bi, nguyện độ tận chúng sanh đều thành Phật, nhưng mà chúng sanh vô tận, nên Bồ Tát hẳn không có cái thời kỳ thành Phật. Sách Chỉ Quán nói: “Xiển đề có tâm còn có thể thành Phật; nhị thừa vì diệt trí nên tâm đại thừa chẳng phát sanh đặng”.
95). Cái võng ngọc: 1. Có chỗ nói Ðế võng, hay Ðế thanh là cái võng bằng ngọc thanh sắc bửu. Như nói Ðế thanh bảo võng, quang giới trùng trùng... Ðó là của Thiên Ðế thích. 2. Có chỗ nói Phạm võng là cái võng báu hơn hết của trời Phạm vương, cũng ánh chiếu lẫn nhau vô cùng vô tận, rước Phật ngồi lên trên bửu võng ấy để nói Bồ Tát giới, nhơn đó lập kinh đề bằng dụ là Phạm Võng kinh Tâm Ðịa Phẩm v.v...
(30)
Giáo là y theo Ngài Hiền Thủ định phân giáo pháp có năm phần là: Tiểu, Thỉ, Chung, Ðốn và Viên. Nay kinh Di Ðà đây thuộc về Ðốn Giáo, mà cũng gồm cả hai giáo trước là Chung và Viên.
CHÚ GIẢI:
Năm giáo là:
1. Tiểu thừa giáo: Nói pháp chỉ chuyên nói "Nhơn Không", (91) dầu có luận nói "Pháp Không" chút ít, nhưng cũng chẳng mấy rõ ràng; vì y nơi lục thức, tam độc để thành lập cái căn bổn Nhiễm, Tịnh, (92) nên chưa tột thấu nguồn gốc của "Pháp Không" (93).
2. Ðại thừa Thỉ Giáo: Do thời thứ hai chỉ nói "Pháp Không", thời thứ ba nói cả ba thừa, nhưng không hứa “định tánh Xiển Ðề" (94) được thành Phật, là lời thuyết pháp chưa tột chỗ cực điểm của bực Ðại thừa, nên gọi là Thỉ Giáo. Trong đó có người thành Phật, có người không thành Phật, nên lại gọi là: Phần giáo. Với chỗ nói thì phần nhiều nói về Pháp tướng, ít luận đến pháp tánh. Dầu có nói tánh, cũng còn là con số tướng. Bởi y nơi tám thức sanh diệt để kiến lập ra các nghĩa loại có nguyên nhơn: Sanh tử và Niết Bàn.
3. Ðại thừa Chung giáo: Do chỉ ra lý diệu hữu của Trung Ðạo nên nói “định tánh xiển đề" đều sẽ thành Phật, mới nói tột chỗ cực điểm của Ðại thừa, nên gọi là Chung giáo. Vì đúng với thật lý nên lại gọi là Thật giáo. Với chỗ nói thì phần nhiều luận về pháp tánh, ít luận đến pháp tướng. Dầu có nói đến "tướng" đi nữa, nhưng cũng hội về "tánh". Bởi căn cứ nơi Như Lai Tạng tánh nó tùy theo vọng duyên của tám thức để thành lập ra các nghĩa.
4. Ðốn giáo: Giáo này hoàn toàn không nói đến pháp tướng chỉ nói ròng về Chơn Tánh, hễ là nhứt niệm bất sanh tức gọi là Phật chứ không trải qua thứ lớp từng bực gì nữa.
5. Viên giáo: Giáo này thống nhứt cả bốn giáo trước, Sự, Lý hoàn toàn trọn vẹn. Bởi lập trường lý luận như thế này: Pháp giới nhiều vô cùng tận, biển tánh trọn vẹn hợp hòa, không ngăn ngại nhau; với nhơn duyên sanh khởi vì một tức tất cả; tất cả tức một, tướng tức tánh, tánh tức tướng, tánh tướng nhiếp lẫn nhau. Như cái lưới ngọc (95) của trời Phạm Vương mỗi ảnh chiếu trùng nhau, thay nhau làm chủ quan, khách quan bằng cách nhiều đến vô cùng vô tận. Năm giáo nói trên rõ như trong lời Huyền Ðàm kinh Hoa Nghiêm; ở đây sợ nhiều không dẫn. Kinh này thuộc về "Ðốn Giáo". Trong môn nghĩa lý sau có giải. Cũng gồm cả trước sau hai giáo là trước thông Chung giáo bởi do tất cả chúng sanh niệm Phật dù là định tánh Xiển Ðề đều sẽ làm Phật. Sau gồm "Viên giáo" là cũng trong môn nghĩa lý có giải.
CHÚ THÍCH
91). Nhơn không, lại tên là Sanh không, Ngã không: nghĩa là quán sát cái thân con người là do năm uẩn mượn lẫn nhau để hòa hợp làm một cái nhơn tướng, lại là do nơi nhơn duyên cũng như đủ điều kiện mới sanh thành ra được bằng cách giả dối. Vì biết trong đó nó chẳng có cái ngã thể là "thường" hay "nhứt" gì hết nên nói là "nhơn không". Chứng nhận được lẽ chơn không rồi, nhơn đó đoạn được tất cả phiền não, rốt đắc quả Niết Bàn, đó là chỗ cực điểm của Tiểu thừa giáo. Bên Ðại thừa lập ra cái lý: Tất cả pháp "sự vật" đều có cái tánh Chơn Như, rằng không cái chấp nhơn ngã (đối với pháp ngã) đó, là nói nhơn không để rõ tánh Chơn Như. Sách Khổng Chương Mục nói: “Ðến không còn ngã chấp là rõ bày tánh Chơn Như, gọi là nhơn không”.
92). Căn bản tịnh nhiễm do nơi tam độc là tham, sân, si làm "căn bản" vô minh; vô minh sanh ra 12 nhơn duyên, tùy thuận tạo ra thập thiện là "tịnh", thập ác là "nhiễm", vì có chấp ta làm thiện, làm ác. Lại hành thập thiện bằng hữu tướng là nhiễm, vô tướng là tịnh, tịnh là vô lậu, vô lậu chỉ tự lợi là Thanh Văn, vô lậu mà lợi tha là Bồ Tát, vì không luôn cả pháp không nữa.
93). Pháp không là không còn chấp pháp, từ trong thâm tâm cho đến ngoài là quốc độ, tất cả sự vật hiện tượng đều không chấp nhứt, phân biệt làm cảnh sở hữu ngoài tánh chơn như. Thế là đều không luôn cả cu sanh pháp chấp, phân biệt pháp chấp kêu là "Ðộ sanh vô tướng... hành thí vô ngã”. Tức là: Vô ngã, vô nhơn; vô chúng sanh; vô thọ giả.
94). Ðịnh tánh xiển đề: Ðịnh tánh người có cái chủng tử (tánh) duy nhứt (định) xiển đề; kêu đủ là nhứt xiển đề, dịch là chẳng đủ đức tin, là nghĩa bất thành Phật. Lại có hai nghĩa: 1. Ðoạn thiện xiển đề, dấy lòng đại tà kiến, dứt hẳn tất cả căn lành, vì bác bỏ hết thảy việc lành. 2. Ðại bi xiển đề: Bồ Tát có cái tâm đại bi, nguyện độ tận chúng sanh đều thành Phật, nhưng mà chúng sanh vô tận, nên Bồ Tát hẳn không có cái thời kỳ thành Phật. Sách Chỉ Quán nói: “Xiển đề có tâm còn có thể thành Phật; nhị thừa vì diệt trí nên tâm đại thừa chẳng phát sanh đặng”.
95). Cái võng ngọc: 1. Có chỗ nói Ðế võng, hay Ðế thanh là cái võng bằng ngọc thanh sắc bửu. Như nói Ðế thanh bảo võng, quang giới trùng trùng... Ðó là của Thiên Ðế thích. 2. Có chỗ nói Phạm võng là cái võng báu hơn hết của trời Phạm vương, cũng ánh chiếu lẫn nhau vô cùng vô tận, rước Phật ngồi lên trên bửu võng ấy để nói Bồ Tát giới, nhơn đó lập kinh đề bằng dụ là Phạm Võng kinh Tâm Ðịa Phẩm v.v...
(30)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
3. PHẦN NHIẾP CHÁNH VĂN:
Phần là mười hai phần giáo như phần Tu Ða La, phần Kỳ Dạ v.v... Nay kinh này thuộc về hai phần Tu Ða La và Ưu Ðà Na.
CHÚ GIẢI: Phần là từng phần, bởi vì nhất đại thời giáo của Phật có chia ra từng phần, đều có chỗ sở thuộc. "Kỳ dạ" Tàu dịch "trùng tụng". Ưu Ðà Na Tàu dịch "Vô vấn tự thuyết" trong 12 bộ, đây sợ nhiều, không dẫn (96). Nói thuộc hai phần: 1. Thuộc phần "Tu Ða La" vì là Khế kinh. 2. Thuộc phần "Ưu Ðà Na" vì là không đợi ai thưa thỉnh mà đức Phật ngài tự kêu ông Thân Tử và chúng hội nói cho nghe.
NGHĨA LÝ THÂM QUẢNG (phân ra làm ba phần):
1. Nhiếp đốn (Gồm cả Ðốn giáo)
2. Phần viên (Gồm một phần Viên giáo).
3. Bàng thông (Lan rộng các giáo).
1. NHIẾP ÐỐN CHÁNH VĂN: Ðã biết rằng kinh này thuộc về Ðốn giáo và có ít phần thuộc về Viên giáo; chứ chưa biết nghĩa lý hoàn toàn như thế nào. Trước nói kinh này thuộc về Ðốn giáo đó, số là bảo: Pháp trì danh liền được vãng sanh, mau siêu, chóng chứng, vì không quanh co (lâu dài, chậm trễ) nên kinh Di Ðà chính thuộc Ðốn giáo.
CHÚ GIẢI: Chính thuộc nghĩa "Ðốn" là: Vì tất cả kẻ phàm muốn chứng lên bực thánh, sự đó rất khó lắm! Vì đường đạo lý quá xa. Nay chỉ có một pháp trì danh liền đặng vãng sanh, đã vãng sanh rồi, tức thì đặng bực "Bất Thối". Khá gọi rằng: Ðời chỉ trọn thành, một đời đặng xong. Ví như đem ngôi báu trao ngay cho kẻ thường dân, chẳng trải qua gia cấp và cũng không phải như lối vòng vo của Tiệm giáo thì đâu sánh kịp, nên gọi kinh này thuộc về nghĩa "Ðốn".
CHÁNH VĂN:
Hoặc có người hỏi thắc mắc rằng: Kinh này Ðốn giáo là tâm không sanh một niệm gì hết, tức gọi là Phật. Như năm pháp, ba tự tánh đều không tám thức, hai món vô ngã đều trừ. Thế mà nay Pháp trì danh niệm Phật đây thì lại có niệm; đã có niệm, thế nào gọi là "đốn" được? Ðáp: Do nhứt tâm bất loạn, chính gọi là vô niệm; nếu còn có niệm, chẳng gọi là nhứt tâm, nhưng đã được nhứt tâm rồi thì pháp nào là pháp chẳng vắng lặng?
CHÚ GIẢI:
Năm pháp là: 1. Danh; 2. Tướng; 3. Vọng tưởng; 4. Chánh trí; 5. Như như (97). Ba tự tánh là: 1. Danh tướng là tánh biến kế chấp, 2. Vọng tưởng là tánh duyên tha khởi. 3. Chánh trí như như là tánh viên thành thật (98).
Bát thức là: A lại da, mạt na và sáu thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) hiệp thành tám thức. Hai vô ngã là nhơn vô ngã và pháp vô ngã (99). Sắp về trước, cũng đều thuộc vào trong năm pháp cả. Rõ thấy trong kinh Lăng Già và các kinh, đều không, đều trừ. Cả năm pháp ấy có chỗ gọi rằng: Thân Phật là vô vi (không hình tướng) không mắc vào các con số, gọi là Phật Thân. Một niệm không sanh, tức gọi là Tâm Phật; ấy là tôn chỉ của "Ðốn Giáo". Nay nói niệm Phật thời niệm hiệu Phật thuộc về Danh, còn đối thân Phật thuộc về tướng, nhớ niệm Phật kia thuộc về vọng tưởng. Dầu cho tịnh niệm nối nhau, được vào pháp "Tam Ma Ðịa" (chánh định) đi nữa, nhưng cũng còn thuộc về danh từ "Chánh Trí Như Như". Vả lại phân biệt là Phật, thuộc về thức tình. Năng niệm là Tâm, sở niệm là Cảnh, thuộc về Nhơn và Pháp; thế còn chưa trừ được tướng hữu ngã, huống là với tướng vô ngã, lẽ nào trừ được ư ? Chỗ không, chỗ trừ của Ðốn Giáo kinh này đều có cả. Do vì chỗ có niệm cho nên họ thắc mắc là chưa phải “Ðốn”; chớ đây chính bảo là vô niệm kia mà! Bởi do nhứt tâm bất loạn thời chẳng chấp có tâm để niệm, chẳng chấp không tâm để niệm, chẳng chấp cái tâm bằng cũng có cũng không để niệm, và chẳng chấp cái tâm bằng chẳng phải có chẳng phải không để niệm. Vậy thử hỏi: lìa bốn câu ấy ra, lại có gì là niệm? Thế thì tuy gọi rằng niệm Phật, chớ vẫn niệm mà vô niệm vậy. Niệm mà vô niệm, thế mới gọi là nhứt tâm. Cái tâm như thế tâm nó cũng không tâm nữa kia, chỉ cưỡng kêu là Nhứt, chứ thật ra tướng Nhứt cũng còn không, đâu tìm được những con số mà người bảo: 5, 3, 8, 2. Thế thời lý nhứt tâm bất loạn đây, chẳng khác nào "nhứt niệm bất sanh" đâu nên nói kinh này chẳng phải là "Ðốn" ?
CHÚ THÍCH
96). 12 Bộ phận cũng như 12 Phần giáo: Ðại thừa Tiểu thừa :
1-Trường hàng Ðại thừa Tiểu thừa
2-Trùng tụng Ðại thừa
3-Thụ ký Ðại thừa Tiểu thừa
4-Cô khởi 4 Ðại thừa
5-Vô vấn tự thuyết Ðại thừa Tiểu thừa
6-Nhơn duyên Ðại thừa Tiểu thừa
7-Thí dụ Ðại thừa Tiểu thừa
8-Bổn sự Ðại thừa Tiểu thừa
9-Bổn sanh Ðại thừa
10-Phương quảng Ðại thừa Tiểu thừa
11-Vị tằng hữu Ðại thừa Tiểu thừa
12-Luận nghị 12
97). Như như: 1. Tướng: là pháp hữu vi lố xố muôn tượng, pháp nào cũng đều tự nhơn duyên sanh ra để chường bày tướng trạng của các thứ. 2. Danh là cũng nương nơi nhơn duyên để kêu gọi cái tướng của các pháp kia, mà nảy ra cái danh của mỗi pháp. Bởi tướng là sở thuyên, còn danh là năng thuyên. Tướng, Danh ấy là cái cảnh sở biến do nơi tâm hữu lậu của phàm phu nó biến hiện ra. 3. Phân biệt, cựu dịch là vọng tưởng, là cái tâm năng biến ra 2 cái tướng phân biệt và phần sở biến. Ba pháp trên đó, là phần năng biến và phần sở biến của tâm hữu lậu. 4. Chánh trí là tất cả vọng tưởng nó xen vào tâm vô lậu. Bốn pháp trên đó chung là pháp hữu vi, để riêng biệt phần hữu lậu và vô lậu. 5. Như như là cái chơn như do chánh trí trước mà chứng đặng; bởi do nơi trí đúng như lý mà chứng đặng chơn như nên nói là như như, là phần vô vi. Dùng năm pháp ấy để gồm thâu tất cả các pháp hữu vi và vô vi, không sót một pháp nào.
98). Tánh viên thành thật: 1. Biến kế sở chấp tánh: Bởi phàm phu vọng chấp nên nhận lầm là thật có vật chất, cái vọng tính phàm phu khắp kể so đo các pháp (sự vật), nên nói là biến kế. Tỷ như: thấy sợi dây nhận lầm là con rắn, chớ không phải có thật thể con rắn, chẳng qua là vọng tình mê chấp cho là rắn đấy thôi, nên nói biến kế sở chấp tánh. Bởi đối với trong và ngoài thân tâm, chúng ta nhận lầm thật có ngã, thật có pháp cũng thế. Vì là cả vạn pháp hữu vi, đều là pháp bởi nhơn duyên mượn nhau hòa hợp đó thôi, chớ không có một chi là thật ngã hay thật pháp gì cả, mà chỉ là cái vọng tình nó chấp lấy đo lường nhận lầm là ngã là pháp thì ra do vọng tình mà còn, chứ không thể rời vọng tình mà có được. 2. Y tha khởi tánh: Tất cả muôn pháp đều nương nơi nhơn duyên để sanh khởi thật thể. Tha: Nhơn duyên, lấy chủng tử của A Lại Da Thức làm cái nhân đệ nhứt, mượn lấy mỗi mỗi trợ duyên kia "Tha" để sanh khởi thì ra lìa vọng tình mà vẫn còn. Tỷ như: sợi dây nó do nhơn duyên là bã gai hay bố... để sanh khởi. 3. Viên thành thật tánh: Cái tánh chơn thật đầy đủ nên cũng gọi là pháp tánh chơn như... là cái thể tánh của tất cả pháp hữu vi, in tuồng như cái thật tánh của tất cả pháp hữu vi, in tuồng như cái thật tánh của dây là gai hay bố. Song biến kế sở chấp tánh là vọng hữu; y tha khởi tánh là giả hữu; viên thành thật tánh là thật hữu.
99). Ngã: chủ tể, phàm phu không rõ thân ngũ uẩn này là nghĩa mượn hòa hiệp, mà lại cố chấp rằng thân thể người thật có tự chủ, tự tại, gọi là nhơn ngã; chứ rõ thân ngũ uẩn là nghĩa mượn hòa hợp hẳn không có nhơn thể nên nói nhơn vô ngã. Ðó là cái lẽ quán sát của Tiểu thừa, dùng để dứt cái chướng phiền não mà đắc quả Niết Bàn. Cố chấp các pháp có thật thể, có thật dụng, thì gọi là pháp ngã; nay hiểu các pháp do nhơn duyên sanh, nó hẳn không có tự tánh, thì gọi là pháp vô ngã. Ðó là lẽ quán sát của Ðại thừa Bồ Tát, để đoạn cái chướng sở tri mà đắc Bồ Tát đạo.
(31)
Phần là mười hai phần giáo như phần Tu Ða La, phần Kỳ Dạ v.v... Nay kinh này thuộc về hai phần Tu Ða La và Ưu Ðà Na.
CHÚ GIẢI: Phần là từng phần, bởi vì nhất đại thời giáo của Phật có chia ra từng phần, đều có chỗ sở thuộc. "Kỳ dạ" Tàu dịch "trùng tụng". Ưu Ðà Na Tàu dịch "Vô vấn tự thuyết" trong 12 bộ, đây sợ nhiều, không dẫn (96). Nói thuộc hai phần: 1. Thuộc phần "Tu Ða La" vì là Khế kinh. 2. Thuộc phần "Ưu Ðà Na" vì là không đợi ai thưa thỉnh mà đức Phật ngài tự kêu ông Thân Tử và chúng hội nói cho nghe.
NGHĨA LÝ THÂM QUẢNG (phân ra làm ba phần):
1. Nhiếp đốn (Gồm cả Ðốn giáo)
2. Phần viên (Gồm một phần Viên giáo).
3. Bàng thông (Lan rộng các giáo).
1. NHIẾP ÐỐN CHÁNH VĂN: Ðã biết rằng kinh này thuộc về Ðốn giáo và có ít phần thuộc về Viên giáo; chứ chưa biết nghĩa lý hoàn toàn như thế nào. Trước nói kinh này thuộc về Ðốn giáo đó, số là bảo: Pháp trì danh liền được vãng sanh, mau siêu, chóng chứng, vì không quanh co (lâu dài, chậm trễ) nên kinh Di Ðà chính thuộc Ðốn giáo.
CHÚ GIẢI: Chính thuộc nghĩa "Ðốn" là: Vì tất cả kẻ phàm muốn chứng lên bực thánh, sự đó rất khó lắm! Vì đường đạo lý quá xa. Nay chỉ có một pháp trì danh liền đặng vãng sanh, đã vãng sanh rồi, tức thì đặng bực "Bất Thối". Khá gọi rằng: Ðời chỉ trọn thành, một đời đặng xong. Ví như đem ngôi báu trao ngay cho kẻ thường dân, chẳng trải qua gia cấp và cũng không phải như lối vòng vo của Tiệm giáo thì đâu sánh kịp, nên gọi kinh này thuộc về nghĩa "Ðốn".
CHÁNH VĂN:
Hoặc có người hỏi thắc mắc rằng: Kinh này Ðốn giáo là tâm không sanh một niệm gì hết, tức gọi là Phật. Như năm pháp, ba tự tánh đều không tám thức, hai món vô ngã đều trừ. Thế mà nay Pháp trì danh niệm Phật đây thì lại có niệm; đã có niệm, thế nào gọi là "đốn" được? Ðáp: Do nhứt tâm bất loạn, chính gọi là vô niệm; nếu còn có niệm, chẳng gọi là nhứt tâm, nhưng đã được nhứt tâm rồi thì pháp nào là pháp chẳng vắng lặng?
CHÚ GIẢI:
Năm pháp là: 1. Danh; 2. Tướng; 3. Vọng tưởng; 4. Chánh trí; 5. Như như (97). Ba tự tánh là: 1. Danh tướng là tánh biến kế chấp, 2. Vọng tưởng là tánh duyên tha khởi. 3. Chánh trí như như là tánh viên thành thật (98).
Bát thức là: A lại da, mạt na và sáu thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) hiệp thành tám thức. Hai vô ngã là nhơn vô ngã và pháp vô ngã (99). Sắp về trước, cũng đều thuộc vào trong năm pháp cả. Rõ thấy trong kinh Lăng Già và các kinh, đều không, đều trừ. Cả năm pháp ấy có chỗ gọi rằng: Thân Phật là vô vi (không hình tướng) không mắc vào các con số, gọi là Phật Thân. Một niệm không sanh, tức gọi là Tâm Phật; ấy là tôn chỉ của "Ðốn Giáo". Nay nói niệm Phật thời niệm hiệu Phật thuộc về Danh, còn đối thân Phật thuộc về tướng, nhớ niệm Phật kia thuộc về vọng tưởng. Dầu cho tịnh niệm nối nhau, được vào pháp "Tam Ma Ðịa" (chánh định) đi nữa, nhưng cũng còn thuộc về danh từ "Chánh Trí Như Như". Vả lại phân biệt là Phật, thuộc về thức tình. Năng niệm là Tâm, sở niệm là Cảnh, thuộc về Nhơn và Pháp; thế còn chưa trừ được tướng hữu ngã, huống là với tướng vô ngã, lẽ nào trừ được ư ? Chỗ không, chỗ trừ của Ðốn Giáo kinh này đều có cả. Do vì chỗ có niệm cho nên họ thắc mắc là chưa phải “Ðốn”; chớ đây chính bảo là vô niệm kia mà! Bởi do nhứt tâm bất loạn thời chẳng chấp có tâm để niệm, chẳng chấp không tâm để niệm, chẳng chấp cái tâm bằng cũng có cũng không để niệm, và chẳng chấp cái tâm bằng chẳng phải có chẳng phải không để niệm. Vậy thử hỏi: lìa bốn câu ấy ra, lại có gì là niệm? Thế thì tuy gọi rằng niệm Phật, chớ vẫn niệm mà vô niệm vậy. Niệm mà vô niệm, thế mới gọi là nhứt tâm. Cái tâm như thế tâm nó cũng không tâm nữa kia, chỉ cưỡng kêu là Nhứt, chứ thật ra tướng Nhứt cũng còn không, đâu tìm được những con số mà người bảo: 5, 3, 8, 2. Thế thời lý nhứt tâm bất loạn đây, chẳng khác nào "nhứt niệm bất sanh" đâu nên nói kinh này chẳng phải là "Ðốn" ?
CHÚ THÍCH
96). 12 Bộ phận cũng như 12 Phần giáo: Ðại thừa Tiểu thừa :
1-Trường hàng Ðại thừa Tiểu thừa
2-Trùng tụng Ðại thừa
3-Thụ ký Ðại thừa Tiểu thừa
4-Cô khởi 4 Ðại thừa
5-Vô vấn tự thuyết Ðại thừa Tiểu thừa
6-Nhơn duyên Ðại thừa Tiểu thừa
7-Thí dụ Ðại thừa Tiểu thừa
8-Bổn sự Ðại thừa Tiểu thừa
9-Bổn sanh Ðại thừa
10-Phương quảng Ðại thừa Tiểu thừa
11-Vị tằng hữu Ðại thừa Tiểu thừa
12-Luận nghị 12
97). Như như: 1. Tướng: là pháp hữu vi lố xố muôn tượng, pháp nào cũng đều tự nhơn duyên sanh ra để chường bày tướng trạng của các thứ. 2. Danh là cũng nương nơi nhơn duyên để kêu gọi cái tướng của các pháp kia, mà nảy ra cái danh của mỗi pháp. Bởi tướng là sở thuyên, còn danh là năng thuyên. Tướng, Danh ấy là cái cảnh sở biến do nơi tâm hữu lậu của phàm phu nó biến hiện ra. 3. Phân biệt, cựu dịch là vọng tưởng, là cái tâm năng biến ra 2 cái tướng phân biệt và phần sở biến. Ba pháp trên đó, là phần năng biến và phần sở biến của tâm hữu lậu. 4. Chánh trí là tất cả vọng tưởng nó xen vào tâm vô lậu. Bốn pháp trên đó chung là pháp hữu vi, để riêng biệt phần hữu lậu và vô lậu. 5. Như như là cái chơn như do chánh trí trước mà chứng đặng; bởi do nơi trí đúng như lý mà chứng đặng chơn như nên nói là như như, là phần vô vi. Dùng năm pháp ấy để gồm thâu tất cả các pháp hữu vi và vô vi, không sót một pháp nào.
98). Tánh viên thành thật: 1. Biến kế sở chấp tánh: Bởi phàm phu vọng chấp nên nhận lầm là thật có vật chất, cái vọng tính phàm phu khắp kể so đo các pháp (sự vật), nên nói là biến kế. Tỷ như: thấy sợi dây nhận lầm là con rắn, chớ không phải có thật thể con rắn, chẳng qua là vọng tình mê chấp cho là rắn đấy thôi, nên nói biến kế sở chấp tánh. Bởi đối với trong và ngoài thân tâm, chúng ta nhận lầm thật có ngã, thật có pháp cũng thế. Vì là cả vạn pháp hữu vi, đều là pháp bởi nhơn duyên mượn nhau hòa hợp đó thôi, chớ không có một chi là thật ngã hay thật pháp gì cả, mà chỉ là cái vọng tình nó chấp lấy đo lường nhận lầm là ngã là pháp thì ra do vọng tình mà còn, chứ không thể rời vọng tình mà có được. 2. Y tha khởi tánh: Tất cả muôn pháp đều nương nơi nhơn duyên để sanh khởi thật thể. Tha: Nhơn duyên, lấy chủng tử của A Lại Da Thức làm cái nhân đệ nhứt, mượn lấy mỗi mỗi trợ duyên kia "Tha" để sanh khởi thì ra lìa vọng tình mà vẫn còn. Tỷ như: sợi dây nó do nhơn duyên là bã gai hay bố... để sanh khởi. 3. Viên thành thật tánh: Cái tánh chơn thật đầy đủ nên cũng gọi là pháp tánh chơn như... là cái thể tánh của tất cả pháp hữu vi, in tuồng như cái thật tánh của tất cả pháp hữu vi, in tuồng như cái thật tánh của dây là gai hay bố. Song biến kế sở chấp tánh là vọng hữu; y tha khởi tánh là giả hữu; viên thành thật tánh là thật hữu.
99). Ngã: chủ tể, phàm phu không rõ thân ngũ uẩn này là nghĩa mượn hòa hiệp, mà lại cố chấp rằng thân thể người thật có tự chủ, tự tại, gọi là nhơn ngã; chứ rõ thân ngũ uẩn là nghĩa mượn hòa hợp hẳn không có nhơn thể nên nói nhơn vô ngã. Ðó là cái lẽ quán sát của Tiểu thừa, dùng để dứt cái chướng phiền não mà đắc quả Niết Bàn. Cố chấp các pháp có thật thể, có thật dụng, thì gọi là pháp ngã; nay hiểu các pháp do nhơn duyên sanh, nó hẳn không có tự tánh, thì gọi là pháp vô ngã. Ðó là lẽ quán sát của Ðại thừa Bồ Tát, để đoạn cái chướng sở tri mà đắc Bồ Tát đạo.
(31)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
2. PHẦN VIÊN CHÁNH VĂN:
Một phần thuộc Viên giáo là lập trường của Viên giáo, vì trong bốn món pháp giới, ba món trước chung lẫn cả các giáo, một món sau riêng thuộc về Viên giáo. Nay kinh này: Viên giáo toàn nhiếp, nó có một phần nhiếp thuộc về Viên giáo. Bởi vì nó chỉ có ít phần Viên giáo nên gọi thuộc “Phần Viên".
CHÚ GIẢI: Bốn pháp giới là: 1. Sự pháp giới; 2. Lý pháp giới; 3. Sự lý vô ngại pháp giới. Với ba pháp giới này các kinh đều có; 4. Sự sự vô ngại pháp giới (100) đây, thì đặc biệt nhứt là riêng một kinh Hoa Nghiêm có thôi, nên gọi là "Nhứt thừa Biệt giáo". Sự và Lý vô ngại thì đồng với "Ðốn" và "Chung". Còn sự sự vô ngại thì chẳng đồng hai giáo kia (Ðốn và Chung) vì riêng ngoài nhứt thừa trong "đồng giáo" kia nên gọi là "Biệt" (riêng) chớ không phải là "Biệt giáo" trong bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên (101). Nay kinh Di Ðà đây có một phần thuộc Viên giáo là do kinh Hoa Nghiêm thì hoàn toàn là Viên giáo; còn kinh Di Ðà đây chỉ có ít phần thuộc Viên giáo. Ðối với phần ít ấy, xin sơ lược kể nói ra có 10 nghĩa:
1. Kinh Hoa Nghiêm nói: cả trong khí giới, từ mảy bụi, mảy lông đến một vật hữu hình, vô hình đều diễn nói pháp âm mầu diệu. Kinh Di Ðà nói: Nước, chim, cây, rừng đều rao pháp "Ngũ căn", "Ngũ lực", "Thất giác chi", Bát thánh đạo" các pháp môn (sẽ rõ ở sau).
2. Kinh Hoa Nghiêm nói: Trong mảy vi trần đủ cả mười phương pháp giới huy hoàng vô tận. Ðây thì như trong kinh Di Ðà Ðại Bổn nói: Với trong một cây "Bảo Thọ", thấy 10 phương cõi Phật như bóng trong gương.
3. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chẳng hề cử động ra khỏi chốn Tịch Diệt đạo tràng mà đã đi khắp pháp giới, nên nói thể tướng vẫn yên lặng như xưa, vốn không hành động chút gì sai khác, thế mà các pháp giới nhiều như số vô đẳng vô lượng, đều đã đi khắp tất cả. Ðây thì như trong kinh Ði Ðà Ðại Bổn nói: Ðức Phật Di Ðà vẫn thường ở tại cảnh Tây phương tịnh độ, mà cũng có ở khắp cả cõi trong mười phương.
4. Kinh Hoa Nghiêm nói lời ví dụ rằng: "Cây thuốc chúa" (102) nếu ai thấy cây ấy, mắt được thanh tịnh, cho đến nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, cả sáu căn không căn nào mà chẳng thanh tịnh. Chúng sanh thấy Phật cũng lại như thế, là do thấy đức Phật Viên Giác, (103) nghe pháp Phổ Môn nhờ thần lực, sáu căn mới được thanh tịnh vậy. Kinh Di Ðà nói: Ðức Phật A Di Ðà ngồi nơi cây Bảo Thọ đạo tràng. Với cây báu ấy kẻ thấy, người nghe, sáu căn đều được thanh tịnh.
5. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chúng sanh trong tám nạn (104) đều siêu lên bực Thập Ðịa, kinh Di Ðà nói: Các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ súc sanh, hễ có niệm Phật đều được vãng sanh.
6. Kinh Hoa Nghiêm nói: Một tức tất cả nên đức Như Lai có thể đối với một thân, để hiện ra nhiều đầu bằng số vi trần ở trong nhiều cõi Phật bằng số bất khả thuyết. Trong mỗi một cái đầu, hiện ra vô số lưỡi. Trong mỗi mỗi lưỡi thốt ra vô số tiếng tăm, cho đến nào văn, tự, câu, nghĩa đầy cả pháp giới. Kinh Di Ðà thời như trong Ðại Bổn nói: Nước Cực Lạc kia có vô lượng hoa báu, trong mỗi đóa hoa phóng ra ba mươi sáu ức na do tha trăm ngàn ánh quang minh; trong mỗi quang minh hiện ra 36 ức na do tha trăm ngàn thân Phật, khắp vì mười phương chúng sanh để thuyết tất cả pháp.
7. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ðức Lô Xá Na, Ðức Thích Ca đều hiện ra hai tướng: Thắng Ứng thân và Liệt Ứng thân (105). Ðây thì như trong Quán Kinh nói: Ðức Phật A Di Ðà hiện thân cao lớn bằng số 60 muôn ức na do tha hằng hà sa do tuần, mà lại thấy thân Liệt Ứng bằng một trượng sáu thước trên ao bát công đức thủy (sẽ giải rõ ở sau).
8. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ðức Lô Xá Na Phật làm giáo chủ. Ðây thời như Ngài Thanh Lương nói: Ðức Phật A Di Ðà tức là đức Bổn Sư Lô Xá Na.
9. Kinh Hoa Nghiêm nói: Kinh Hoa Nghiêm là kinh "Ðại Bất Tư Nghì" còn kinh Tịnh Danh và các kinh là "Tiểu Bất Tư Nghì", mà kinh Di Ðà thì lại là kinh "Bất khả Tư Nghì Công Ðức" vậy thôi, chứ chả phân là Tiểu hay Ðại gì !
10. Lập trường của kinh Hoa Nghiêm là nói: Chính nơi tâm phàm phu để thành ngay trí bất động của chư Phật. Kinh Di Ðà đây nói: Không ngoài pháp niệm Phật bằng cách xưng danh mà được Phật hiện tiền. Thế thời kinh Di Ðà bằng bực với kinh Tịnh Danh và các kinh... đồng một loại với kinh Hoa Nghiêm. Vì Viên giáo trọn thâu kinh này (Di Ðà). Kinh nầy một phần thuộc Viên giáo, bởi do nghĩa có ít phần thuộc Viên giáo, nên mới gọi là "Phần Viên".
CHÚ THÍCH
100). Sự sự vô ngại pháp giới. Tất cả chia ngăn mỗi sự mỗi pháp nhứt nhứt đều đúng thức tánh, vì suốt lẫn với nhau bằng mỗi lớp mỗi lớp vô cùng vô tận (xin xem ở số 12).
101). Tạng, Thông, Biệt, Viên. Ðấy là Thiên Thai tông phân làm "Hoá pháp tứ giáo". 1. Tạng giáo tức tam tạng là kinh, luật, luận, phân rành từ bộ, từ loại, nói về pháp tứ đế nhơn duyên sanh diệt, chính là để dạy cả Thinh Văn, Duyên Giác gọi là nhị thừa, mà rộng ra thì cũng hóa độ đến Bồ Tát nữa. 2. Thông giáo: nói về pháp tứ chơn đế bằng lẽ tức không vô sanh, cả tam thừa thông đồng học tập, nhưng dùng Bồ Tát làm chính cơ, còn nhị thừa làm bàng cơ. 3. Biệt giáo: riêng biệt đối với Bồ Tát, để nói pháp Ðại thừa vô lượng nghĩa, chớ chẳng đồng với người bực nhị thừa. 4. Viên giáo: Ðối với Bồ Tát bực tối thượng lợi căn để nói về pháp trung đạo thật tướng bằng sự lý viên dung. Bốn giáo ấy là pháp môn để giáo hóa chúng sanh được lợi ích, nên gọi hóa pháp tứ giáo.
102). Cây thuốc chúa: Thảo mộc đều có thể lành bệnh mà trong cả dược thảo, thứ nào hay nhứt hơn hết được gọi dược vương thụ. Như Hoa Nghiêm kinh nói: “Có cây thuốc thượng hảo, gốc rễ ăn sâu, cành lá bủa khắp, rễ, cọng, nhánh lá đều trị lành các bệnh; ai nghe hương vị của nó, cũng đều lành bệnh tất cả. Bồ Tát cũng thế dùng Ðại bi ướp thân nên từ hình thể đến tiếng tăm, đều lợi ích cho chúng sanh, gọi là cái thân Ðại Dược Vương”. Sách Pháp Hoa Nhập Sớ chép rằng: “Ðối với Ðức Quán Thế Âm, chúng sanh nào được thấy thân thể hay nghe tiếng tăm, đều đặng hết bệnh khổ, vì thân Bồ Tát như cây thuốc chúa nên nói "Phổ Môn thị hiện cứu khổ tầm thinh".
103). Viên giác Phật: Pháp thân Phật của Viên giáo là Tỳ Lô Xá Na Phật. Pháp Hoa Văn Cú nói: “Ẩn 3 tướng trước, chỉ thị ra cái thân tướng bất khả tư nghì như hư không tức là Phật Viên Giác, vì tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”. Nghe pháp Phổ Môn: Phổ: khắp giáp; Môn: trí giác khai thông không ngại, hay thông đường khiến người tỏ vào. Pháp Hoa Khoa Chú nói: “Phổ Môn pháp tức là Viên Thông pháp”. Kinh Hoa Nghiêm nói rõ trong một môn, thâu vào tất cả pháp, gọi là Phổ Môn pháp. Sách Thám Huyền Ký nói: “Vào pháp tổng trì duyên khởi, trong một môn liền thông gồm cả viên dung pháp giới, nên nói Phổ Môn”.
104). Bát nạn lên Thập Ðịa: 1. Ðịa ngục khốn khổ vì quá tội khổ. 2. Ngạ quỉ khốn khổ vì quá đói khát. 3. Bàng sanh khốn khổ vì quá si mê. 4. Uất Ðơn Việt, khốn khổ vì quá vui sướng không tu được. 5. Trường Thọ thiên là các trời và ở trung giới, thượng giới, vì quá ư sống lâu khó giải thoát để tiến tu và quá ư hưởng phước vui cũng không tu được mà thành ra khốn khổ. 6. Những kẻ điếc, đui, câm, ngọng, giữa nhơn gian, khốn khổ vì 6 căn chẳng đủ, thiếu cái tướng người. 7. Thế trí biện thông: Khốn khổ vì xảo ngôn biện bác, phải nói ra quấy; quấy nói ra phải, nói sao nghe cũng có lý được cả, nhưng thất đức ác khẩu vì mất sự thật. 8. Phật tiền, Phật hậu: Người sanh trưởng ở chỗ không có pháp Phật và giữa quãng đời giữa hai đức Phật, nghĩa là Phật trước đã qua đời, Phật sau chưa xuất thế, mà ở chỗ chẳng có chùa Phật, đạo pháp gì; còn chỗ có đạo Pháp và có thấy nghe tu học được thì khỏi bị cái nạn đó.
105). Thắng Ứng thân, Liệt Ứng thân: Thắng Ứng thân cũng gọi là "Tôn Ðắc thân". Tổ Thiên Thai lập ra ba thân: Pháp, Báo và Ứng. Với Báo thân lại phân làm hai: 1. Tự thụ dụng thân. 2. Tha thụ dụng thân: Ðối với cái Báo thân bằng tự thụ dụng thì kêu cái Báo thân bằng Tha Thụ dụng, là: "Ứng thân". Ðối với thứ ba liệt ứng thân trượng lục thì kêu Tha thụ dụng thân là "Thắng Ứng". Vậy biết "Thắng Ứng thân" tức là Tha thụ dụng Báo thân. Sách Pháp Hoa Văn Cú Ký chép: “Nên với "Tha thụ dụng thân", cũng được gọi là "Báo thân", cũng được kêu là "Ứng thân"; dù Thắng hay Liệt cũng đều tên là "Ứng thân" cả.
(33)
Một phần thuộc Viên giáo là lập trường của Viên giáo, vì trong bốn món pháp giới, ba món trước chung lẫn cả các giáo, một món sau riêng thuộc về Viên giáo. Nay kinh này: Viên giáo toàn nhiếp, nó có một phần nhiếp thuộc về Viên giáo. Bởi vì nó chỉ có ít phần Viên giáo nên gọi thuộc “Phần Viên".
CHÚ GIẢI: Bốn pháp giới là: 1. Sự pháp giới; 2. Lý pháp giới; 3. Sự lý vô ngại pháp giới. Với ba pháp giới này các kinh đều có; 4. Sự sự vô ngại pháp giới (100) đây, thì đặc biệt nhứt là riêng một kinh Hoa Nghiêm có thôi, nên gọi là "Nhứt thừa Biệt giáo". Sự và Lý vô ngại thì đồng với "Ðốn" và "Chung". Còn sự sự vô ngại thì chẳng đồng hai giáo kia (Ðốn và Chung) vì riêng ngoài nhứt thừa trong "đồng giáo" kia nên gọi là "Biệt" (riêng) chớ không phải là "Biệt giáo" trong bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên (101). Nay kinh Di Ðà đây có một phần thuộc Viên giáo là do kinh Hoa Nghiêm thì hoàn toàn là Viên giáo; còn kinh Di Ðà đây chỉ có ít phần thuộc Viên giáo. Ðối với phần ít ấy, xin sơ lược kể nói ra có 10 nghĩa:
1. Kinh Hoa Nghiêm nói: cả trong khí giới, từ mảy bụi, mảy lông đến một vật hữu hình, vô hình đều diễn nói pháp âm mầu diệu. Kinh Di Ðà nói: Nước, chim, cây, rừng đều rao pháp "Ngũ căn", "Ngũ lực", "Thất giác chi", Bát thánh đạo" các pháp môn (sẽ rõ ở sau).
2. Kinh Hoa Nghiêm nói: Trong mảy vi trần đủ cả mười phương pháp giới huy hoàng vô tận. Ðây thì như trong kinh Di Ðà Ðại Bổn nói: Với trong một cây "Bảo Thọ", thấy 10 phương cõi Phật như bóng trong gương.
3. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chẳng hề cử động ra khỏi chốn Tịch Diệt đạo tràng mà đã đi khắp pháp giới, nên nói thể tướng vẫn yên lặng như xưa, vốn không hành động chút gì sai khác, thế mà các pháp giới nhiều như số vô đẳng vô lượng, đều đã đi khắp tất cả. Ðây thì như trong kinh Ði Ðà Ðại Bổn nói: Ðức Phật Di Ðà vẫn thường ở tại cảnh Tây phương tịnh độ, mà cũng có ở khắp cả cõi trong mười phương.
4. Kinh Hoa Nghiêm nói lời ví dụ rằng: "Cây thuốc chúa" (102) nếu ai thấy cây ấy, mắt được thanh tịnh, cho đến nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, cả sáu căn không căn nào mà chẳng thanh tịnh. Chúng sanh thấy Phật cũng lại như thế, là do thấy đức Phật Viên Giác, (103) nghe pháp Phổ Môn nhờ thần lực, sáu căn mới được thanh tịnh vậy. Kinh Di Ðà nói: Ðức Phật A Di Ðà ngồi nơi cây Bảo Thọ đạo tràng. Với cây báu ấy kẻ thấy, người nghe, sáu căn đều được thanh tịnh.
5. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chúng sanh trong tám nạn (104) đều siêu lên bực Thập Ðịa, kinh Di Ðà nói: Các chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ súc sanh, hễ có niệm Phật đều được vãng sanh.
6. Kinh Hoa Nghiêm nói: Một tức tất cả nên đức Như Lai có thể đối với một thân, để hiện ra nhiều đầu bằng số vi trần ở trong nhiều cõi Phật bằng số bất khả thuyết. Trong mỗi một cái đầu, hiện ra vô số lưỡi. Trong mỗi mỗi lưỡi thốt ra vô số tiếng tăm, cho đến nào văn, tự, câu, nghĩa đầy cả pháp giới. Kinh Di Ðà thời như trong Ðại Bổn nói: Nước Cực Lạc kia có vô lượng hoa báu, trong mỗi đóa hoa phóng ra ba mươi sáu ức na do tha trăm ngàn ánh quang minh; trong mỗi quang minh hiện ra 36 ức na do tha trăm ngàn thân Phật, khắp vì mười phương chúng sanh để thuyết tất cả pháp.
7. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ðức Lô Xá Na, Ðức Thích Ca đều hiện ra hai tướng: Thắng Ứng thân và Liệt Ứng thân (105). Ðây thì như trong Quán Kinh nói: Ðức Phật A Di Ðà hiện thân cao lớn bằng số 60 muôn ức na do tha hằng hà sa do tuần, mà lại thấy thân Liệt Ứng bằng một trượng sáu thước trên ao bát công đức thủy (sẽ giải rõ ở sau).
8. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ðức Lô Xá Na Phật làm giáo chủ. Ðây thời như Ngài Thanh Lương nói: Ðức Phật A Di Ðà tức là đức Bổn Sư Lô Xá Na.
9. Kinh Hoa Nghiêm nói: Kinh Hoa Nghiêm là kinh "Ðại Bất Tư Nghì" còn kinh Tịnh Danh và các kinh là "Tiểu Bất Tư Nghì", mà kinh Di Ðà thì lại là kinh "Bất khả Tư Nghì Công Ðức" vậy thôi, chứ chả phân là Tiểu hay Ðại gì !
10. Lập trường của kinh Hoa Nghiêm là nói: Chính nơi tâm phàm phu để thành ngay trí bất động của chư Phật. Kinh Di Ðà đây nói: Không ngoài pháp niệm Phật bằng cách xưng danh mà được Phật hiện tiền. Thế thời kinh Di Ðà bằng bực với kinh Tịnh Danh và các kinh... đồng một loại với kinh Hoa Nghiêm. Vì Viên giáo trọn thâu kinh này (Di Ðà). Kinh nầy một phần thuộc Viên giáo, bởi do nghĩa có ít phần thuộc Viên giáo, nên mới gọi là "Phần Viên".
CHÚ THÍCH
100). Sự sự vô ngại pháp giới. Tất cả chia ngăn mỗi sự mỗi pháp nhứt nhứt đều đúng thức tánh, vì suốt lẫn với nhau bằng mỗi lớp mỗi lớp vô cùng vô tận (xin xem ở số 12).
101). Tạng, Thông, Biệt, Viên. Ðấy là Thiên Thai tông phân làm "Hoá pháp tứ giáo". 1. Tạng giáo tức tam tạng là kinh, luật, luận, phân rành từ bộ, từ loại, nói về pháp tứ đế nhơn duyên sanh diệt, chính là để dạy cả Thinh Văn, Duyên Giác gọi là nhị thừa, mà rộng ra thì cũng hóa độ đến Bồ Tát nữa. 2. Thông giáo: nói về pháp tứ chơn đế bằng lẽ tức không vô sanh, cả tam thừa thông đồng học tập, nhưng dùng Bồ Tát làm chính cơ, còn nhị thừa làm bàng cơ. 3. Biệt giáo: riêng biệt đối với Bồ Tát, để nói pháp Ðại thừa vô lượng nghĩa, chớ chẳng đồng với người bực nhị thừa. 4. Viên giáo: Ðối với Bồ Tát bực tối thượng lợi căn để nói về pháp trung đạo thật tướng bằng sự lý viên dung. Bốn giáo ấy là pháp môn để giáo hóa chúng sanh được lợi ích, nên gọi hóa pháp tứ giáo.
102). Cây thuốc chúa: Thảo mộc đều có thể lành bệnh mà trong cả dược thảo, thứ nào hay nhứt hơn hết được gọi dược vương thụ. Như Hoa Nghiêm kinh nói: “Có cây thuốc thượng hảo, gốc rễ ăn sâu, cành lá bủa khắp, rễ, cọng, nhánh lá đều trị lành các bệnh; ai nghe hương vị của nó, cũng đều lành bệnh tất cả. Bồ Tát cũng thế dùng Ðại bi ướp thân nên từ hình thể đến tiếng tăm, đều lợi ích cho chúng sanh, gọi là cái thân Ðại Dược Vương”. Sách Pháp Hoa Nhập Sớ chép rằng: “Ðối với Ðức Quán Thế Âm, chúng sanh nào được thấy thân thể hay nghe tiếng tăm, đều đặng hết bệnh khổ, vì thân Bồ Tát như cây thuốc chúa nên nói "Phổ Môn thị hiện cứu khổ tầm thinh".
103). Viên giác Phật: Pháp thân Phật của Viên giáo là Tỳ Lô Xá Na Phật. Pháp Hoa Văn Cú nói: “Ẩn 3 tướng trước, chỉ thị ra cái thân tướng bất khả tư nghì như hư không tức là Phật Viên Giác, vì tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”. Nghe pháp Phổ Môn: Phổ: khắp giáp; Môn: trí giác khai thông không ngại, hay thông đường khiến người tỏ vào. Pháp Hoa Khoa Chú nói: “Phổ Môn pháp tức là Viên Thông pháp”. Kinh Hoa Nghiêm nói rõ trong một môn, thâu vào tất cả pháp, gọi là Phổ Môn pháp. Sách Thám Huyền Ký nói: “Vào pháp tổng trì duyên khởi, trong một môn liền thông gồm cả viên dung pháp giới, nên nói Phổ Môn”.
104). Bát nạn lên Thập Ðịa: 1. Ðịa ngục khốn khổ vì quá tội khổ. 2. Ngạ quỉ khốn khổ vì quá đói khát. 3. Bàng sanh khốn khổ vì quá si mê. 4. Uất Ðơn Việt, khốn khổ vì quá vui sướng không tu được. 5. Trường Thọ thiên là các trời và ở trung giới, thượng giới, vì quá ư sống lâu khó giải thoát để tiến tu và quá ư hưởng phước vui cũng không tu được mà thành ra khốn khổ. 6. Những kẻ điếc, đui, câm, ngọng, giữa nhơn gian, khốn khổ vì 6 căn chẳng đủ, thiếu cái tướng người. 7. Thế trí biện thông: Khốn khổ vì xảo ngôn biện bác, phải nói ra quấy; quấy nói ra phải, nói sao nghe cũng có lý được cả, nhưng thất đức ác khẩu vì mất sự thật. 8. Phật tiền, Phật hậu: Người sanh trưởng ở chỗ không có pháp Phật và giữa quãng đời giữa hai đức Phật, nghĩa là Phật trước đã qua đời, Phật sau chưa xuất thế, mà ở chỗ chẳng có chùa Phật, đạo pháp gì; còn chỗ có đạo Pháp và có thấy nghe tu học được thì khỏi bị cái nạn đó.
105). Thắng Ứng thân, Liệt Ứng thân: Thắng Ứng thân cũng gọi là "Tôn Ðắc thân". Tổ Thiên Thai lập ra ba thân: Pháp, Báo và Ứng. Với Báo thân lại phân làm hai: 1. Tự thụ dụng thân. 2. Tha thụ dụng thân: Ðối với cái Báo thân bằng tự thụ dụng thì kêu cái Báo thân bằng Tha Thụ dụng, là: "Ứng thân". Ðối với thứ ba liệt ứng thân trượng lục thì kêu Tha thụ dụng thân là "Thắng Ứng". Vậy biết "Thắng Ứng thân" tức là Tha thụ dụng Báo thân. Sách Pháp Hoa Văn Cú Ký chép: “Nên với "Tha thụ dụng thân", cũng được gọi là "Báo thân", cũng được kêu là "Ứng thân"; dù Thắng hay Liệt cũng đều tên là "Ứng thân" cả.
(33)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
3. BÀNG THÔNG (phân ra làm hai phần):
1. Quán kinh .
2. Chư kinh .
QUÁN KINH
CHÁNH VĂN: Trước nói kinh này thông đồng với kinh Thập Lục Quán đó là bởi có người chấp rằng 16 pháp quán gọi là Ðịnh Thiện, với chấp trì danh hiệu gọi là Tán Thiện. Nay vì lẽ thông đồng mà nói, thì trong đây có hai nghĩa: 1. Tổng 2. Biệt. Trước nói Tổng là Kinh Thập Lục Quán cả 16 pháp diệu quán, đều chủ về lý nhứt tâm. Kinh Di Ðà đây trọng về lý nhứt tâm, chính hiệp với ý kinh kia. Vì kinh kia nhứt tâm tác quán, kinh này nhứt tâm xưng danh; thế đâu đặng với cả hai đồng qui về LÝ NHỨT TÂM mà lại tán dương kinh kia, dằn ép kinh này. Rõ như trong lời Sớ ngài Tịnh Giác đã nói...
CHÚ GIẢI:
“Bàng thông” là không phân biệt Ðốn giáo hay Viên giáo, chỉ lấy nghĩa lý thông đồng nhau giữa các kinh Ðại thừa mà thôi. Do vì kinh Thập Lục Quán là kinh chuyên môn nói về Tịnh Ðộ nên dẫn để nói trước. “Ðịnh Thiện, Tán Thiện” là: Ngài Cô Sơn phân phán ra cho 16 pháp quán là Ðịnh Thiện. Ðối với kinh đây, pháp trì danh cho là Tán Thiện (106), chứ đây bảo rằng: "Nhứt tâm bất loạn" có sự, có lý, chính nơi "Sự nhứt tâm" đã chẳng phải hoàn toàn Tán Thiện thay, huống chi là "Lý nhứt". “Chính hợp với ý kia” là kinh kia dạy tu 3 pháp quán như vầy: Tâm quán không tức không, quán giả tức giả, quán trung tức trung, vượt hẳn lớp lang thế là đắc “tam quán nhứt tâm". Kinh Di Ðà này dạy tu niệm Phật bằng cách "chấp trì danh hiệu" đến khi đặng cái "Nhứt tâm bất loạn" thì cả năng trì, sở trì đều không thể có, đó gọi là "Không quán". Chính đương lúc không mà năng, sở rõ ràng, đó gọi là "giả quán". Chẳng phải giả, chẳng phải không mà thường không, thường giả, bất khả tư nghì, đó gọi là Trung Ðạo quán. Bởi vì riêng giữ một danh hiệu Phật để niệm liền được nhứt tâm; đã nhứt tâm thì có gì thứ lớp! Ðây chính là nghĩa ba quán viên tu. Thế thời kinh kia dùng nhứt tâm quán tưởng làm tôn, kinh đây dùng nhứt tâm trì niệm làm chủ, vì Quán tức là niệm, niệm tức là quán. Vậy hai kinh chỗ nói đã đồng nhứt tâm, sao riêng với kinh này chê là Tán Thiện! Cho nên pháp môn này tên là pháp “Niệm Phật tam muội", cũng tên là "Nhứt Hạnh tam muội", cũng tên là "Chư Phật Hiện Tiền tam muội", cũng tên là "Bát Nhã tam muội", cũng tên là "Phổ Ðẳng tam muội". Nói "Tam Muội" nghĩa là Chánh Ðịnh. Kinh Di Ðà này đã thông đồng với nhiều pháp tam muội như thế sao dám chê là Tán Thiện? Nói cho đúng lý: Tu quán tưởng nếu chẳng đặng nhứt tâm thì pháp quán ấy cũng thành là Tán; tu trì danh nếu được nhứt tâm, pháp trì danh ấy tức thành là Ðịnh. Ðừng tính ở quán tưởng hay trì danh mà chỉ tính ở chỗ đặng nhứt tâm cùng không nhứt tâm mà thôi . Như lời sớ của ngài Tịnh Giác nói: “Ðối với Quán kinh, ngài Trí Giả đại sư cho ba món tịnh nghiệp (107) thuộc về Tán Thiện, 16 pháp diệu quán thuộc về Ðịnh Thiện”; chớ chưa nghe ngài chê pháp trì danh là Tán Thiện bao giờ! Ông Cô Sơn phê phán kinh Di Ðà là Tán Thiện, theo ý tôi (Vân Thê) không nhận cái thuyết kia. Và như lời Sớ trong phẩm Phổ Môn giải rằng: "Nhứt tâm xưng danh có sự, có lý, chuyên niệm đức Quan Âm, lòng niệm không gián đoạn, gọi là Sự nhứt tâm. Nếu đạt được tâm này, bốn tánh (108) không sanh, vì tương ưng với pháp Không Huệ gọi là Lý nhứt tâm". Trong phẩm Phổ Môn kia nói thiếu hai chữ "bất loạn", ngài Trí Giả còn dùng hai chữ "Không Huệ" (huệ chơn không) để giải; huống chi kinh Di Ðà nói: "Nhứt tâm bất loạn” thì đâu đặng chê là Tán Thiện?! Theo ý ngu tôi xét: Ngài Trí Giả khi nhập diệt, còn xướng danh hiệu Tam Bảo, ngài Chương An khi lâm chung cũng niệm Phật A Di Ðà và niệm hai vị đại sĩ Quan Âm, Thế Chí. Hai thầy trò của ngài Trí Giả đồng "xướng danh, niệm danh", như thế thì hẳn không đặng đem hai chữ "Tán Thiện" để gắn cho pháp trì danh của kinh này. Xét đó, càng thêm tin chắc.
CHÚ THÍCH
106). Ðịnh thiện, tán thiện: Ðịnh là nghỉ dứt cái tư lự để tâm ngưng trụ vào một cảnh; Tán là bỏ ác để tu lành, mặc dù tâm tán loạn. Tóm lại, là đều đem hai hạnh ấy hồi hướng nguyện sanh về Tịnh Ðộ. Ðời Ðường, ngài Thiện Ðạo đem 16 pháp quán của một bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, phân làm định thiện, tán thiện; với 13 quán trước, dùng cái tâm thiền định, để quán tưởng Y Báo, Chánh Báo của Tịnh Ðộ, nên gọi là Ðịnh Thiện. Với 3 quán sau, dùng cái tâm tán loạn để tu cái hạnh 3 phước 9 phẩm nên gọi là tán thiện.
107). Tam chưởng tịnh nghiệp: Lại tên là 3 điều phước: 1. Thảo nuôi cha mẹ, vâng thờ sư trưởng, lòng từ chẳng sát sanh, tu 10 nghiệp lành. 2. Giữ và làm đủ các giới hạnh. 3. Phát Bồ Ðề tâm, tin sâu lý nhơn quả, đọc tụng kinh Ðại thừa.
108). Bốn tánh: 1. Tự tánh hành: Bồ Tát tự tánh bấy lâu nay vẫn hiền lành, hiếu dưỡng phụ mẫu, kính thuận Sa Môn, làm đủ 10 điều thiện. 2. Nguyện tánh hành: Bồ Tát phát tâm nguyện thành đạo tác Phật. 3. Thuận tánh hành: Bồ Tát thuận theo 6 độ để thuận hành. 4. Chuyển tánh hành: Nhơn công tu hành, để chuyển phàm thành thánh. Thấy rõ trong Phật Bổn Hạnh Tập Kinh cuốn nhứt.
(34)
1. Quán kinh .
2. Chư kinh .
QUÁN KINH
CHÁNH VĂN: Trước nói kinh này thông đồng với kinh Thập Lục Quán đó là bởi có người chấp rằng 16 pháp quán gọi là Ðịnh Thiện, với chấp trì danh hiệu gọi là Tán Thiện. Nay vì lẽ thông đồng mà nói, thì trong đây có hai nghĩa: 1. Tổng 2. Biệt. Trước nói Tổng là Kinh Thập Lục Quán cả 16 pháp diệu quán, đều chủ về lý nhứt tâm. Kinh Di Ðà đây trọng về lý nhứt tâm, chính hiệp với ý kinh kia. Vì kinh kia nhứt tâm tác quán, kinh này nhứt tâm xưng danh; thế đâu đặng với cả hai đồng qui về LÝ NHỨT TÂM mà lại tán dương kinh kia, dằn ép kinh này. Rõ như trong lời Sớ ngài Tịnh Giác đã nói...
CHÚ GIẢI:
“Bàng thông” là không phân biệt Ðốn giáo hay Viên giáo, chỉ lấy nghĩa lý thông đồng nhau giữa các kinh Ðại thừa mà thôi. Do vì kinh Thập Lục Quán là kinh chuyên môn nói về Tịnh Ðộ nên dẫn để nói trước. “Ðịnh Thiện, Tán Thiện” là: Ngài Cô Sơn phân phán ra cho 16 pháp quán là Ðịnh Thiện. Ðối với kinh đây, pháp trì danh cho là Tán Thiện (106), chứ đây bảo rằng: "Nhứt tâm bất loạn" có sự, có lý, chính nơi "Sự nhứt tâm" đã chẳng phải hoàn toàn Tán Thiện thay, huống chi là "Lý nhứt". “Chính hợp với ý kia” là kinh kia dạy tu 3 pháp quán như vầy: Tâm quán không tức không, quán giả tức giả, quán trung tức trung, vượt hẳn lớp lang thế là đắc “tam quán nhứt tâm". Kinh Di Ðà này dạy tu niệm Phật bằng cách "chấp trì danh hiệu" đến khi đặng cái "Nhứt tâm bất loạn" thì cả năng trì, sở trì đều không thể có, đó gọi là "Không quán". Chính đương lúc không mà năng, sở rõ ràng, đó gọi là "giả quán". Chẳng phải giả, chẳng phải không mà thường không, thường giả, bất khả tư nghì, đó gọi là Trung Ðạo quán. Bởi vì riêng giữ một danh hiệu Phật để niệm liền được nhứt tâm; đã nhứt tâm thì có gì thứ lớp! Ðây chính là nghĩa ba quán viên tu. Thế thời kinh kia dùng nhứt tâm quán tưởng làm tôn, kinh đây dùng nhứt tâm trì niệm làm chủ, vì Quán tức là niệm, niệm tức là quán. Vậy hai kinh chỗ nói đã đồng nhứt tâm, sao riêng với kinh này chê là Tán Thiện! Cho nên pháp môn này tên là pháp “Niệm Phật tam muội", cũng tên là "Nhứt Hạnh tam muội", cũng tên là "Chư Phật Hiện Tiền tam muội", cũng tên là "Bát Nhã tam muội", cũng tên là "Phổ Ðẳng tam muội". Nói "Tam Muội" nghĩa là Chánh Ðịnh. Kinh Di Ðà này đã thông đồng với nhiều pháp tam muội như thế sao dám chê là Tán Thiện? Nói cho đúng lý: Tu quán tưởng nếu chẳng đặng nhứt tâm thì pháp quán ấy cũng thành là Tán; tu trì danh nếu được nhứt tâm, pháp trì danh ấy tức thành là Ðịnh. Ðừng tính ở quán tưởng hay trì danh mà chỉ tính ở chỗ đặng nhứt tâm cùng không nhứt tâm mà thôi . Như lời sớ của ngài Tịnh Giác nói: “Ðối với Quán kinh, ngài Trí Giả đại sư cho ba món tịnh nghiệp (107) thuộc về Tán Thiện, 16 pháp diệu quán thuộc về Ðịnh Thiện”; chớ chưa nghe ngài chê pháp trì danh là Tán Thiện bao giờ! Ông Cô Sơn phê phán kinh Di Ðà là Tán Thiện, theo ý tôi (Vân Thê) không nhận cái thuyết kia. Và như lời Sớ trong phẩm Phổ Môn giải rằng: "Nhứt tâm xưng danh có sự, có lý, chuyên niệm đức Quan Âm, lòng niệm không gián đoạn, gọi là Sự nhứt tâm. Nếu đạt được tâm này, bốn tánh (108) không sanh, vì tương ưng với pháp Không Huệ gọi là Lý nhứt tâm". Trong phẩm Phổ Môn kia nói thiếu hai chữ "bất loạn", ngài Trí Giả còn dùng hai chữ "Không Huệ" (huệ chơn không) để giải; huống chi kinh Di Ðà nói: "Nhứt tâm bất loạn” thì đâu đặng chê là Tán Thiện?! Theo ý ngu tôi xét: Ngài Trí Giả khi nhập diệt, còn xướng danh hiệu Tam Bảo, ngài Chương An khi lâm chung cũng niệm Phật A Di Ðà và niệm hai vị đại sĩ Quan Âm, Thế Chí. Hai thầy trò của ngài Trí Giả đồng "xướng danh, niệm danh", như thế thì hẳn không đặng đem hai chữ "Tán Thiện" để gắn cho pháp trì danh của kinh này. Xét đó, càng thêm tin chắc.
CHÚ THÍCH
106). Ðịnh thiện, tán thiện: Ðịnh là nghỉ dứt cái tư lự để tâm ngưng trụ vào một cảnh; Tán là bỏ ác để tu lành, mặc dù tâm tán loạn. Tóm lại, là đều đem hai hạnh ấy hồi hướng nguyện sanh về Tịnh Ðộ. Ðời Ðường, ngài Thiện Ðạo đem 16 pháp quán của một bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, phân làm định thiện, tán thiện; với 13 quán trước, dùng cái tâm thiền định, để quán tưởng Y Báo, Chánh Báo của Tịnh Ðộ, nên gọi là Ðịnh Thiện. Với 3 quán sau, dùng cái tâm tán loạn để tu cái hạnh 3 phước 9 phẩm nên gọi là tán thiện.
107). Tam chưởng tịnh nghiệp: Lại tên là 3 điều phước: 1. Thảo nuôi cha mẹ, vâng thờ sư trưởng, lòng từ chẳng sát sanh, tu 10 nghiệp lành. 2. Giữ và làm đủ các giới hạnh. 3. Phát Bồ Ðề tâm, tin sâu lý nhơn quả, đọc tụng kinh Ðại thừa.
108). Bốn tánh: 1. Tự tánh hành: Bồ Tát tự tánh bấy lâu nay vẫn hiền lành, hiếu dưỡng phụ mẫu, kính thuận Sa Môn, làm đủ 10 điều thiện. 2. Nguyện tánh hành: Bồ Tát phát tâm nguyện thành đạo tác Phật. 3. Thuận tánh hành: Bồ Tát thuận theo 6 độ để thuận hành. 4. Chuyển tánh hành: Nhơn công tu hành, để chuyển phàm thành thánh. Thấy rõ trong Phật Bổn Hạnh Tập Kinh cuốn nhứt.
(34)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
CHÁNH VĂN:
Kế đây nói nghĩa riêng. Hoặc có người thắc mắc cho rằng:
1. Kinh Di Ðà đây chỉ nghe danh suông của Phật.
2. Kinh Di Ðà đây nói thân Phật là Liệt Ứng.
3. Kinh Di Ðà đây nói hoa sen chừng bằng bánh xe .
4. Kinh Di Ðà đây nói tội ngũ nghịch không đƣợc vãng sanh .
5. Kinh Di Ðà đây thuộc về hạ phẩm.
Họ nạn như thế vì họ không biết hai kinh (Quán kinh với A Di Ðà kinh) thật đồng một nghĩa và họ không biết kinh A Di Ðà lại càng độc yếu hơn nữa .
CHÚ GIẢI: "Chỉ nghe danh suông" là có người thắc mắc cho rằng: Trong Quán kinh dạy tưởng tướng hảo của Phật, còn kinh Di Ðà đây chỉ chấp trì bốn chữ danh hiệu suông, chớ không thấy thân tướng hảo của Phật nên họ cho là Tán Thiện. Song trong kinh này đã nói: "Ðức Phật A Di Ðà cùng các Thánh chúng hiện ở trước mặt người kia". Ðã nói Phật hiện thời đâu không tướng hảo? Huống cùng thánh chúng, chủ và bạn đều hiện bày? Số là kinh kia do tác quán thấy Phật, kinh đây do trì danh thấy Phật, dù chỗ tu nhơn không đồng, chớ chỗ thấy Phật thì một.
"Thân Liệt Ứng" là có người nói mắc mỏ rằng: Trong Quán kinh nói thân Phật cao đến sáu mươi muôn ức na do tha, hằng hà sa do tuần (109), còn kinh này không nói, họ nghi là "thân Liệt Ứng" cho nên gọi là Tán Thiện. Song trong kinh Ðại Bổn nói: Lúc bấy giờ đức Phật A Di Ðà phóng hào quang lớn chiếu khắp tất cả thế giới. Ông A Nan thấy dung thể của Phật lớn cao vòi vọi như núi vàng ròng, cao vót lên trên tất cả thế giới. Thế thì trong Quán kinh chỗ nói còn cuộc hạn trong một thế giới; nay kinh này nói tất cả thế giới là cao lớn hơn biết bao, đâu nên nói là thân Liệt Ứng!? Kinh Ðại Bổn lại nói cây báu nơi đạo tràng (110) của Phật A Di Ðà toàn dùng các món báu tự nhiên hợp thành, cây báu ấy, không phải thân trượng sáu ngồi dưới cội cây Bồ đề, thời đâu nên nói là thân Liệt Ứng!? Lại trong Quán kinh nói: Phật kia hoặc hiện thân một trượng sáu, hay tám thước; hoặc hiện thân cao lớn đầy giữa hư không. Thế là tùy cơ cảm của chúng sanh nên chỗ thấy có lớn nhỏ không nhứt định; thành thử cổ đức nói: “Dầu liệt ứng, dầu thắng ứng, dầu sanh thân, dầu Pháp thân, nhưng cũng không phải hai thân”. Huống chi trong kinh đây không thấy nói ra thân Phật lớn, nhỏ chi cả, sao dám quyết định đặt điều cho là thân Liệt Ứng?
"Hoa sen chừng bằng bánh xe" là có người bảo rằng: Trong Quán kinh nói: “Hoa sen lớn mười hai do tuần”; còn kinh đây nói: “Hoa sen nhỏ hạng bằng bánh xe”, cho nên gọi là Tán Thiện . Song họ đâu biết cái nghĩa bánh xe lớn nhỏ không nhứt định. Như trong kinh Ðại Bổn nói bánh xe lớn đến trăm ngàn do tuần (111), đâu những "mười hai do tuần" mà thôi; rõ như trong văn sau có biện.
"Tội ngũ nghịch không được vãng sanh" là có người đưa ra nạn đề rằng: Trong Quán kinh nói tội ngũ nghịch được vãng sanh; còn kinh Ðại Bổn nói: “Chỉ trừ tội ngũ nghịch không được vãng sanh”. Họ chê kinh này công tế độ hẹp hòi nên họ cho là Tán Thiện . Nhưng họ đâu biết dưới câu: “Chỉ trừ tội ngũ nghịch" có thêm bốn chữ "phỉ báng chánh pháp", mới bị trừ ra. Tuy người đủ tội ngũ nghịch (112) mà không "phỉ báng chánh pháp", vị tất không được vãng sanh? Bởi do "phỉ báng" thời không tin, vì không tin nên không được vãng sanh. Sở dĩ có câu: “Nghi thời hoa sen không nở”, thật thế. Trong Quán kinh không nói: "Phỉ báng chánh pháp". Nếu như gồm có phỉ báng ấy cũng không được vãng sanh vậy. Lại trong Quán kinh về phẩm "Hạ hạ", trong văn ngũ nghịch nói: “Người phạm tội ngũ nghịch, khi lâm chung niệm danh hiệu phật mười tiếng liền được vãng sanh”. Thế là pháp Quán tưởng chưa thành chỉ nhờ mười niệm... Vậy tội ngũ nghịch cũng được vãng sanh đó chính là nhờ có niệm danh hiệu mới được vãng sanh mà thôi. Huống nữa trong kinh Ðại Bổn nói: "Những tội đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng sanh về trong cõi của ta". Những người đọa trong địa ngục đó không phải là người ngũ nghịch chớ gì ?
"Chỉ thuộc về hạ phẩm" là có người thắc mắc rằng: Trong Quán kinh nói về ba phẩm hạ. Phẩm đầu nói đối với người trí thức, dạy bảo chắp tay, hoặc vòng tay để niệm "Nam Mô A Di Ðà Phật". Về phẩm thứ ba nói, thiện hữu dạy rằng: "Nếu người kém trí thức không thể niệm Phật bằng cách chắp vòng tay thì nên chỉ niệm danh hiệu". Thế thì pháp trì danh được vãng sanh đó dường như chỉ ở phẩm hạ! Họ đâu có biết pháp trì danh có Sự, có Lý. Lý lại có thấp có cao. Nay nói người vãng sanh về hạ phẩm đó chỉ là sự thiện, nếu thành lý quán thời đồng với ba quán viên tu của kinh kia, khế hiệp không hai, lo gì phẩm vị không cao. Huống chi trong văn hạ phẩm, chính chỉ cho người ác, người ngu có niệm Phật được về ở đó, chớ không phải nói về người thiện và người trí trì danh mà cũng ở phẩm hạ đâu. Nên biết hai kinh (Di Ðà và Quán kinh) vẫn đồng một nghĩa. “Ðộc yếu” là lược giải có ba ý:
1. Trong Quán kinh chép rõ về thân Phật tuy nói rằng thân ấy tức là Báo thân, tức Pháp thân, nhưng mà với số na do tha (113) hằng sa đó không phải là không có con số để kể, với hóa thân (ứng hóa hay sanh thân) cao lớn bao nhiêu (114) còn đợi 13 lời vấn đáp để biện giải điều nghi sau. Kinh đây chỉ nói quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng. Thế thì không thuộc về các con số nào mà chỉ ngay về Pháp thân thôi, đây là món độc yếu thứ nhứt vậy.
2. Với 16 pháp diệu quán, tuy rằng: Tâm tức quán, quán tức tâm, nhưng mà trước phải quán mặt trời, kế quán đến nước, đến đất, đến hàng cây, đến bảo tọa, sau mới quán vào thân Phật. Thế thì không phải không thứ lớp, biết bao là bộn bề. Còn kinh này nói: Không cần tu các hạnh nghiệp đó, chỉ chuyên về một pháp trì danh, thoạt được nhất tâm, liền thấy Phật hiện trước mắt. Ðây là món độc yếu thứ hai vậy.
3. Sanh về ba phẩm Thượng có thể dạo khắp mười phương, thừa sự chư Phật; còn hai phẩm Trung và Hạ không thấy dạy như thế. Chớ kinh đây nói: Trì danh được vãng sanh liền được mỗi sáng ra đi cúng dường chư Phật khắp mười phương rồi liền trở về nước kịp trong giờ ăn buổi mai. Ðây là món độc yếu thứ ba vậy. Người đời nghe nói hai kinh đồng một nghĩa còn sanh nghi thay, huống lại nghe nói kinh này độc yếu hơn càng thêm sợ hãi. Cho nên nói kinh này là pháp mà người đời "Nan Tín" (khó tin) và cũng nói kinh này là kinh "bất khả tư nghì công đức vậy".
CHÚ THÍCH
109). Do tuần: Danh từ số dặm của Ấn Ðộ, có 3 hạng: 1. Thượng do tuần: 80 dặm. 2. Trung do tuần: 60 dặm. 3. Hạ do tuần: 40 dặm. Mỗi một dặm là xa bằng ngó con trâu nhỏ như con dê (tức là như một cây số ngàn).
110). Cây báu Ðạo Tràng: Kinh Vô Lượng Thọ cuốn thượng chép về chuyện cây Bồ Ðề ở thế giới Cực Lạc như vầy: Cây báu nơi đạo tràng của Ðức Di Ðà, nó có vô lượng ánh màu, thân cây cao đến 4 trăm muôn dặm, là chỗ đức Di Ðà ngồi thành đạo thuyết pháp, đó là tịnh độ hoàng kim, nên cây Bồ Ðề bằng ngọc báu. Còn ở uế độ nầy nơi đạo tràng chỗ Ðức Thích Ca ngồi thành đạo thuyết pháp thì cây Bồ đề bằng gỗ. Nói tóm lại, cây Bồ Ðề hay chốn Ðạo tràng đều là tiêu biểu của Ðạo, từ sự đến lý... Ðạo tràng: Là cái trường để học Ðạo, như những chỗ Tăng chúng ở tu hành: chùa chiền, Tịnh xá, Hội quán Hội Phật học v.v...đều gọi là Ðạo tràng. Cây Bồ Ðề là Phật ngồi nơi gốc cây nầy tu luyện mà được "giác ngộ", chứng đặng "nhứt thế đạo chủng trí" nên gọi cây nầy là cây Bồ Ðề, và đặt nó là cây Bồ Ðề. Bồ Ðề là tiếng Phạm (Bồ Ðề hay Bu Ði, Bù Ðì, Bồ Ðà cũng thế), Tàu dịch là "giác trí".
111). Do tuần, cựu dịch do tuần; tân dịch là thâu thiện na, dịch nghĩa là Hợp Ứng. Kể Hợp Ứng với bấy nhiêu đo lường, đồng với số trạm ở xứ nầy hồi xưa. Nguyên tiếng Phạm là Yojena (xem thêm ở số 109).
112). Ngũ nghịch: Ngũ nghịch thông đồng của tam thừa nói: 1. Giết cha; 2. Giết mẹ; 3. Giết A La Hán; 4. Làm thân Phật ra máu; 5. Phá hòa hợp Tăng.
113). Na do tha: Dịch là số ức, có ba hạng: 1. Một ức bằng mười vạn. 2. Một ức bằng trăm muôn. 3. Một ức bằng nghìn muôn. Na Do Tha, tiếng Phạm Nayuta.
114). Với sanh thân cao lớn còn đợi nói rõ điều nghi: Có chỗ nói "Cái thân cao mười vạn ức Na Do tha", đó là cái sanh thân (cũng như ứng thân hay hóa thân). Số là cái thân ở tịnh độ, thắng hơn cái thân ở uế độ, vì sanh thân bên tịnh độ phải cao lớn chừng nớ (bấy nhiêu đó), còn sanh thân ở uế độ thì chỉ có một trượng 6 thước. Tri Lễ pháp sư dùng 13 lần vấn đáp để biện minh việc nầy, quyết định là cái thân cao lớn đặc biệt (rút ở sách Diệu Tông Sao).
Kế đây nói nghĩa riêng. Hoặc có người thắc mắc cho rằng:
1. Kinh Di Ðà đây chỉ nghe danh suông của Phật.
2. Kinh Di Ðà đây nói thân Phật là Liệt Ứng.
3. Kinh Di Ðà đây nói hoa sen chừng bằng bánh xe .
4. Kinh Di Ðà đây nói tội ngũ nghịch không đƣợc vãng sanh .
5. Kinh Di Ðà đây thuộc về hạ phẩm.
Họ nạn như thế vì họ không biết hai kinh (Quán kinh với A Di Ðà kinh) thật đồng một nghĩa và họ không biết kinh A Di Ðà lại càng độc yếu hơn nữa .
CHÚ GIẢI: "Chỉ nghe danh suông" là có người thắc mắc cho rằng: Trong Quán kinh dạy tưởng tướng hảo của Phật, còn kinh Di Ðà đây chỉ chấp trì bốn chữ danh hiệu suông, chớ không thấy thân tướng hảo của Phật nên họ cho là Tán Thiện. Song trong kinh này đã nói: "Ðức Phật A Di Ðà cùng các Thánh chúng hiện ở trước mặt người kia". Ðã nói Phật hiện thời đâu không tướng hảo? Huống cùng thánh chúng, chủ và bạn đều hiện bày? Số là kinh kia do tác quán thấy Phật, kinh đây do trì danh thấy Phật, dù chỗ tu nhơn không đồng, chớ chỗ thấy Phật thì một.
"Thân Liệt Ứng" là có người nói mắc mỏ rằng: Trong Quán kinh nói thân Phật cao đến sáu mươi muôn ức na do tha, hằng hà sa do tuần (109), còn kinh này không nói, họ nghi là "thân Liệt Ứng" cho nên gọi là Tán Thiện. Song trong kinh Ðại Bổn nói: Lúc bấy giờ đức Phật A Di Ðà phóng hào quang lớn chiếu khắp tất cả thế giới. Ông A Nan thấy dung thể của Phật lớn cao vòi vọi như núi vàng ròng, cao vót lên trên tất cả thế giới. Thế thì trong Quán kinh chỗ nói còn cuộc hạn trong một thế giới; nay kinh này nói tất cả thế giới là cao lớn hơn biết bao, đâu nên nói là thân Liệt Ứng!? Kinh Ðại Bổn lại nói cây báu nơi đạo tràng (110) của Phật A Di Ðà toàn dùng các món báu tự nhiên hợp thành, cây báu ấy, không phải thân trượng sáu ngồi dưới cội cây Bồ đề, thời đâu nên nói là thân Liệt Ứng!? Lại trong Quán kinh nói: Phật kia hoặc hiện thân một trượng sáu, hay tám thước; hoặc hiện thân cao lớn đầy giữa hư không. Thế là tùy cơ cảm của chúng sanh nên chỗ thấy có lớn nhỏ không nhứt định; thành thử cổ đức nói: “Dầu liệt ứng, dầu thắng ứng, dầu sanh thân, dầu Pháp thân, nhưng cũng không phải hai thân”. Huống chi trong kinh đây không thấy nói ra thân Phật lớn, nhỏ chi cả, sao dám quyết định đặt điều cho là thân Liệt Ứng?
"Hoa sen chừng bằng bánh xe" là có người bảo rằng: Trong Quán kinh nói: “Hoa sen lớn mười hai do tuần”; còn kinh đây nói: “Hoa sen nhỏ hạng bằng bánh xe”, cho nên gọi là Tán Thiện . Song họ đâu biết cái nghĩa bánh xe lớn nhỏ không nhứt định. Như trong kinh Ðại Bổn nói bánh xe lớn đến trăm ngàn do tuần (111), đâu những "mười hai do tuần" mà thôi; rõ như trong văn sau có biện.
"Tội ngũ nghịch không được vãng sanh" là có người đưa ra nạn đề rằng: Trong Quán kinh nói tội ngũ nghịch được vãng sanh; còn kinh Ðại Bổn nói: “Chỉ trừ tội ngũ nghịch không được vãng sanh”. Họ chê kinh này công tế độ hẹp hòi nên họ cho là Tán Thiện . Nhưng họ đâu biết dưới câu: “Chỉ trừ tội ngũ nghịch" có thêm bốn chữ "phỉ báng chánh pháp", mới bị trừ ra. Tuy người đủ tội ngũ nghịch (112) mà không "phỉ báng chánh pháp", vị tất không được vãng sanh? Bởi do "phỉ báng" thời không tin, vì không tin nên không được vãng sanh. Sở dĩ có câu: “Nghi thời hoa sen không nở”, thật thế. Trong Quán kinh không nói: "Phỉ báng chánh pháp". Nếu như gồm có phỉ báng ấy cũng không được vãng sanh vậy. Lại trong Quán kinh về phẩm "Hạ hạ", trong văn ngũ nghịch nói: “Người phạm tội ngũ nghịch, khi lâm chung niệm danh hiệu phật mười tiếng liền được vãng sanh”. Thế là pháp Quán tưởng chưa thành chỉ nhờ mười niệm... Vậy tội ngũ nghịch cũng được vãng sanh đó chính là nhờ có niệm danh hiệu mới được vãng sanh mà thôi. Huống nữa trong kinh Ðại Bổn nói: "Những tội đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng sanh về trong cõi của ta". Những người đọa trong địa ngục đó không phải là người ngũ nghịch chớ gì ?
"Chỉ thuộc về hạ phẩm" là có người thắc mắc rằng: Trong Quán kinh nói về ba phẩm hạ. Phẩm đầu nói đối với người trí thức, dạy bảo chắp tay, hoặc vòng tay để niệm "Nam Mô A Di Ðà Phật". Về phẩm thứ ba nói, thiện hữu dạy rằng: "Nếu người kém trí thức không thể niệm Phật bằng cách chắp vòng tay thì nên chỉ niệm danh hiệu". Thế thì pháp trì danh được vãng sanh đó dường như chỉ ở phẩm hạ! Họ đâu có biết pháp trì danh có Sự, có Lý. Lý lại có thấp có cao. Nay nói người vãng sanh về hạ phẩm đó chỉ là sự thiện, nếu thành lý quán thời đồng với ba quán viên tu của kinh kia, khế hiệp không hai, lo gì phẩm vị không cao. Huống chi trong văn hạ phẩm, chính chỉ cho người ác, người ngu có niệm Phật được về ở đó, chớ không phải nói về người thiện và người trí trì danh mà cũng ở phẩm hạ đâu. Nên biết hai kinh (Di Ðà và Quán kinh) vẫn đồng một nghĩa. “Ðộc yếu” là lược giải có ba ý:
1. Trong Quán kinh chép rõ về thân Phật tuy nói rằng thân ấy tức là Báo thân, tức Pháp thân, nhưng mà với số na do tha (113) hằng sa đó không phải là không có con số để kể, với hóa thân (ứng hóa hay sanh thân) cao lớn bao nhiêu (114) còn đợi 13 lời vấn đáp để biện giải điều nghi sau. Kinh đây chỉ nói quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng. Thế thì không thuộc về các con số nào mà chỉ ngay về Pháp thân thôi, đây là món độc yếu thứ nhứt vậy.
2. Với 16 pháp diệu quán, tuy rằng: Tâm tức quán, quán tức tâm, nhưng mà trước phải quán mặt trời, kế quán đến nước, đến đất, đến hàng cây, đến bảo tọa, sau mới quán vào thân Phật. Thế thì không phải không thứ lớp, biết bao là bộn bề. Còn kinh này nói: Không cần tu các hạnh nghiệp đó, chỉ chuyên về một pháp trì danh, thoạt được nhất tâm, liền thấy Phật hiện trước mắt. Ðây là món độc yếu thứ hai vậy.
3. Sanh về ba phẩm Thượng có thể dạo khắp mười phương, thừa sự chư Phật; còn hai phẩm Trung và Hạ không thấy dạy như thế. Chớ kinh đây nói: Trì danh được vãng sanh liền được mỗi sáng ra đi cúng dường chư Phật khắp mười phương rồi liền trở về nước kịp trong giờ ăn buổi mai. Ðây là món độc yếu thứ ba vậy. Người đời nghe nói hai kinh đồng một nghĩa còn sanh nghi thay, huống lại nghe nói kinh này độc yếu hơn càng thêm sợ hãi. Cho nên nói kinh này là pháp mà người đời "Nan Tín" (khó tin) và cũng nói kinh này là kinh "bất khả tư nghì công đức vậy".
CHÚ THÍCH
109). Do tuần: Danh từ số dặm của Ấn Ðộ, có 3 hạng: 1. Thượng do tuần: 80 dặm. 2. Trung do tuần: 60 dặm. 3. Hạ do tuần: 40 dặm. Mỗi một dặm là xa bằng ngó con trâu nhỏ như con dê (tức là như một cây số ngàn).
110). Cây báu Ðạo Tràng: Kinh Vô Lượng Thọ cuốn thượng chép về chuyện cây Bồ Ðề ở thế giới Cực Lạc như vầy: Cây báu nơi đạo tràng của Ðức Di Ðà, nó có vô lượng ánh màu, thân cây cao đến 4 trăm muôn dặm, là chỗ đức Di Ðà ngồi thành đạo thuyết pháp, đó là tịnh độ hoàng kim, nên cây Bồ Ðề bằng ngọc báu. Còn ở uế độ nầy nơi đạo tràng chỗ Ðức Thích Ca ngồi thành đạo thuyết pháp thì cây Bồ đề bằng gỗ. Nói tóm lại, cây Bồ Ðề hay chốn Ðạo tràng đều là tiêu biểu của Ðạo, từ sự đến lý... Ðạo tràng: Là cái trường để học Ðạo, như những chỗ Tăng chúng ở tu hành: chùa chiền, Tịnh xá, Hội quán Hội Phật học v.v...đều gọi là Ðạo tràng. Cây Bồ Ðề là Phật ngồi nơi gốc cây nầy tu luyện mà được "giác ngộ", chứng đặng "nhứt thế đạo chủng trí" nên gọi cây nầy là cây Bồ Ðề, và đặt nó là cây Bồ Ðề. Bồ Ðề là tiếng Phạm (Bồ Ðề hay Bu Ði, Bù Ðì, Bồ Ðà cũng thế), Tàu dịch là "giác trí".
111). Do tuần, cựu dịch do tuần; tân dịch là thâu thiện na, dịch nghĩa là Hợp Ứng. Kể Hợp Ứng với bấy nhiêu đo lường, đồng với số trạm ở xứ nầy hồi xưa. Nguyên tiếng Phạm là Yojena (xem thêm ở số 109).
112). Ngũ nghịch: Ngũ nghịch thông đồng của tam thừa nói: 1. Giết cha; 2. Giết mẹ; 3. Giết A La Hán; 4. Làm thân Phật ra máu; 5. Phá hòa hợp Tăng.
113). Na do tha: Dịch là số ức, có ba hạng: 1. Một ức bằng mười vạn. 2. Một ức bằng trăm muôn. 3. Một ức bằng nghìn muôn. Na Do Tha, tiếng Phạm Nayuta.
114). Với sanh thân cao lớn còn đợi nói rõ điều nghi: Có chỗ nói "Cái thân cao mười vạn ức Na Do tha", đó là cái sanh thân (cũng như ứng thân hay hóa thân). Số là cái thân ở tịnh độ, thắng hơn cái thân ở uế độ, vì sanh thân bên tịnh độ phải cao lớn chừng nớ (bấy nhiêu đó), còn sanh thân ở uế độ thì chỉ có một trượng 6 thước. Tri Lễ pháp sư dùng 13 lần vấn đáp để biện minh việc nầy, quyết định là cái thân cao lớn đặc biệt (rút ở sách Diệu Tông Sao).
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
CÁC KINH
CHÁNH VĂN: "Lại nói thông đồng trong các kinh" là ý nghĩa của kinh này cùng thông đồng nhau với các kinh Ðại thừa như kinh Tịnh Danh, kinh Pháp Hoa v.v... Song người mà đã thấy được chỗ lan rộng thông đồng nhau như thế thời mới biết nghĩa lý kinh này bao trùm, thâm thúy, rộng xa, chứ không nên coi như các kinh thiển cận (Tiểu thừa) mà tự mắc tội lỗi !!
CHÚ GIẢI: Kinh Tịnh Danh, kinh Pháp Hoa v.v... Kinh đây nói: Nhứt tâm trì danh đặng sanh về nước kia (Cực lạc) tức là đồng với "Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh". Ðây là nghĩa kinh Tịnh Danh. Lại kinh này nói: Nhứt tâm trì danh tức là đồng với “Dụng thân tâm niệm Phật”... nhẫn đến “một mình vào nhà người nhứt tâm niệm Nam mô Phật, đi khất thực không bạn cũng nhứt tâm niệm Phật, một tiếng niệm Nam mô Phật, đều đã thành quả Phật”. Ðây là nghĩa trong kinh Pháp Hoa . Chữ "Ðẳng"v.v... là lược dẫn các kinh, như kinh Văn Thù nói tu pháp nhứt hạnh tam muội, kinh Ðại Phẩm nói: "Nếu người tán tâm niệm Phật... Nhẫn đến hết khổ, được phước kia không hết". Ðây là nghĩa kinh Bát Nhã. Như kinh nói: “Trong 21 ngày cúi đầu lễ niệm danh hiệu các đức Phật trong mười phương”. Ðây là nghĩa kinh Viên Giác. Như nói: Năm trăm (500) người con ông Trưởng giả xưng niệm danh hiệu của bảy lớp (7 đời) Phật (115) bèn đặng thấy thân Phật vàng chói, liền chứng quả A La Hán. Ðây là nghĩa trong kinh Quán Phật tam muội . Như nói: “Ông Bồ Tát tu sáu phép niệm (116) mà phép niệm Phật là thứ nhứt”. Lại nói: “Buộc lòng niệm nghĩ nhớ Phật, vì nhờ sức nhơn duyên ấy mà đoạn được phiền não”. Ðây là nghĩa trong kinh Niết Bàn. Như Phật bảo phụ vương rằng: “Ngày nay nên niệm Phật A Di Ðà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương thường cần tinh tấn, sẽ được quả Phật”. Lại nói: “Tu mười tâm để hồi hướng cầu vãng sanh, khi mạng chung ắt được sanh về cõi nước Phật kia (Phật A Di Ðà)”. Ðây đều là nghĩa trong kinh Bảo Tích. Chí như kinh này cũng đồng nhau với nghĩa Viên của kinh Hoa Nghiêm thì đã thấy ở văn trước rồi . Với nghĩa niệm Phật không thể kể xiết. Như trên là chỉ ngay đại ý của một bổn kinh mà nói thế thôi. Nếu bàn rộng về nghĩa kinh thời như kinh Tịnh Danh nói: Nơi phương trượng (thất) của ông Duy Ma dung nạp cả ba mươi hai ngàn (32.000) tòa sư tử. Nay kinh này nói: Cõi Tịnh Ðộ đức Phật A Di Ðà, mười phương sanh về đó, nhiều như những hột mưa, đều sanh trong ao thất bảo không hề chật hẹp; tức là nghĩa kinh Tịnh Danh. Trong phẩm Như Lai Thần Lực nói: Ðức Phật Thích Ca cùng các Hóa Phật ở mười phương đồng hiện ra tướng lưỡi rộng dài cho đến cõi trời Phạm Thiên vì để khen ngợi kinh Pháp Hoa. Kinh này nói: Chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi khen ngợi đức Phật A Di Ðà cũng lại như thế, tức là nghĩa kinh Pháp Hoa. Lược dẫn một phần ít đồng với các kinh Ðại thừa, còn bao nhiêu nữa sợ nhiều không dẫn nói. Lại luận Khởi Tín trong phần nhân duyên, lời Sớ nói: “Bực Thập Tín sơ tâm có bốn món cơ: Dùng sự lễ bái sám hối để diệt tội giúp cho bực sơ cơ (Thiên nhơn cơ). Dùng tu tập pháp chỉ quán để giúp cho bậc trung cơ (Thinh Văn cơ và Duyên Giác cơ). Dùng pháp cầu sanh Tịnh Ðộ để giúp cho bậc thượng cơ (Bồ Tát cơ). Cơ đầu là những chúng sanh nhiều nghiệp chướng. Cơ bậc trung là phàm phu, nhị thừa”. Thế thì biết pháp môn Tịnh Ðộ là pháp tu của bậc Ðại Thừa Bồ Tát. Nghĩa lý bao trùm tổng kết văn trên. Chữ "Tội lỗi" là những người khinh chê kinh này, tức là khinh chê các kinh Ðại Thừa mắc tội vô lượng. –
CHÚ THÍCH
115). Bảy đời Phật: Kinh Tràng A Hàm đại bổn nói: "Trước đây 91 kiếp về đời quá khứ, bấy giờ có Phật hiệu là Tỳ Bà Thi (Vipasyin); kế, 31 kiếp trước đây, bấy giờ có Phật hiệu là Thi Khí Như Lai (Sikhin); cũng trong kiếp trên, bấy giờ có Phật Tỳ Xá Bà (Visvahhù); giữa kiếp Hiền đây, trong tiểu kiếp thứ 9 có đức Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda); đức Câu Na Hàm (Kanakmuni); đức Ca Diếp (Kàsyapa). Ta (đức Thích Ca) nay cũng ở trong kiếp thứ 9 của Hiền kiếp này". Kinh Ðại Bi nói: "A Nan! Giữa kiếp Hiền này, sau khi ta nhập diệt rồi, qua tiểu kiếp thứ 10 về sau, còn có 996 đức Phật nữa tiếp tục ra đời, như trước Ta thì đức Câu Lưu Tôn là số 1, ta là số 4, qua tiểu kiếp thứ 10, Di Lặc Phật là số 5. Ðến tiểu kiếp thứ 20, đức Lư Cha Như Lai là số 1.000, ngươi phải biết thứ lớp như thế" (với 1.000 Phật trên xin xem cái biểu đồ ở bộ Nguyên Nhơn Luận). Luận Trí Ðộ nói: "Trước Hiền kiếp 91 tiểu kiếp, ban đầu có Tỳ Bà Thi, giữa tiểu kiếp thứ 31 trước đây có hai đức Phật là Thi Khí, Ðệ Thứ Bà Phụ; trong Hiền kiếp đây có 4 Phật là: Ca la Cưu Xàn Ðà, Ca Na Dà Mưu Ny, Ca Diếp và Thích Ca Mâu Ni". Ba đức Phật trước là Phật ở về khoản rốt kiếp Trang Nghiêm của quá khứ; còn 4 Phật sau là Phật ở về tiểu kiếp thứ 9 trong kiếp trụ giữa nhơn hiền của kiếp hiện tại.
116). Tu sáu pháp niệm. 1. Niệm Phật là từ bi đại Ðạo Sư; 2. Niệm Pháp là tam thế Phật mẫu; 3. Niệm Tăng là nhơn thiên phước điền; 4. Niệm Thiên là trường thọ an lạc; 5. Niệm giới là thân tâm thanh tịnh; 6. Niệm trí là phổ tế bần cùng.
CHÁNH VĂN: "Lại nói thông đồng trong các kinh" là ý nghĩa của kinh này cùng thông đồng nhau với các kinh Ðại thừa như kinh Tịnh Danh, kinh Pháp Hoa v.v... Song người mà đã thấy được chỗ lan rộng thông đồng nhau như thế thời mới biết nghĩa lý kinh này bao trùm, thâm thúy, rộng xa, chứ không nên coi như các kinh thiển cận (Tiểu thừa) mà tự mắc tội lỗi !!
CHÚ GIẢI: Kinh Tịnh Danh, kinh Pháp Hoa v.v... Kinh đây nói: Nhứt tâm trì danh đặng sanh về nước kia (Cực lạc) tức là đồng với "Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh". Ðây là nghĩa kinh Tịnh Danh. Lại kinh này nói: Nhứt tâm trì danh tức là đồng với “Dụng thân tâm niệm Phật”... nhẫn đến “một mình vào nhà người nhứt tâm niệm Nam mô Phật, đi khất thực không bạn cũng nhứt tâm niệm Phật, một tiếng niệm Nam mô Phật, đều đã thành quả Phật”. Ðây là nghĩa trong kinh Pháp Hoa . Chữ "Ðẳng"v.v... là lược dẫn các kinh, như kinh Văn Thù nói tu pháp nhứt hạnh tam muội, kinh Ðại Phẩm nói: "Nếu người tán tâm niệm Phật... Nhẫn đến hết khổ, được phước kia không hết". Ðây là nghĩa kinh Bát Nhã. Như kinh nói: “Trong 21 ngày cúi đầu lễ niệm danh hiệu các đức Phật trong mười phương”. Ðây là nghĩa kinh Viên Giác. Như nói: Năm trăm (500) người con ông Trưởng giả xưng niệm danh hiệu của bảy lớp (7 đời) Phật (115) bèn đặng thấy thân Phật vàng chói, liền chứng quả A La Hán. Ðây là nghĩa trong kinh Quán Phật tam muội . Như nói: “Ông Bồ Tát tu sáu phép niệm (116) mà phép niệm Phật là thứ nhứt”. Lại nói: “Buộc lòng niệm nghĩ nhớ Phật, vì nhờ sức nhơn duyên ấy mà đoạn được phiền não”. Ðây là nghĩa trong kinh Niết Bàn. Như Phật bảo phụ vương rằng: “Ngày nay nên niệm Phật A Di Ðà ở thế giới Cực Lạc Tây Phương thường cần tinh tấn, sẽ được quả Phật”. Lại nói: “Tu mười tâm để hồi hướng cầu vãng sanh, khi mạng chung ắt được sanh về cõi nước Phật kia (Phật A Di Ðà)”. Ðây đều là nghĩa trong kinh Bảo Tích. Chí như kinh này cũng đồng nhau với nghĩa Viên của kinh Hoa Nghiêm thì đã thấy ở văn trước rồi . Với nghĩa niệm Phật không thể kể xiết. Như trên là chỉ ngay đại ý của một bổn kinh mà nói thế thôi. Nếu bàn rộng về nghĩa kinh thời như kinh Tịnh Danh nói: Nơi phương trượng (thất) của ông Duy Ma dung nạp cả ba mươi hai ngàn (32.000) tòa sư tử. Nay kinh này nói: Cõi Tịnh Ðộ đức Phật A Di Ðà, mười phương sanh về đó, nhiều như những hột mưa, đều sanh trong ao thất bảo không hề chật hẹp; tức là nghĩa kinh Tịnh Danh. Trong phẩm Như Lai Thần Lực nói: Ðức Phật Thích Ca cùng các Hóa Phật ở mười phương đồng hiện ra tướng lưỡi rộng dài cho đến cõi trời Phạm Thiên vì để khen ngợi kinh Pháp Hoa. Kinh này nói: Chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi khen ngợi đức Phật A Di Ðà cũng lại như thế, tức là nghĩa kinh Pháp Hoa. Lược dẫn một phần ít đồng với các kinh Ðại thừa, còn bao nhiêu nữa sợ nhiều không dẫn nói. Lại luận Khởi Tín trong phần nhân duyên, lời Sớ nói: “Bực Thập Tín sơ tâm có bốn món cơ: Dùng sự lễ bái sám hối để diệt tội giúp cho bực sơ cơ (Thiên nhơn cơ). Dùng tu tập pháp chỉ quán để giúp cho bậc trung cơ (Thinh Văn cơ và Duyên Giác cơ). Dùng pháp cầu sanh Tịnh Ðộ để giúp cho bậc thượng cơ (Bồ Tát cơ). Cơ đầu là những chúng sanh nhiều nghiệp chướng. Cơ bậc trung là phàm phu, nhị thừa”. Thế thì biết pháp môn Tịnh Ðộ là pháp tu của bậc Ðại Thừa Bồ Tát. Nghĩa lý bao trùm tổng kết văn trên. Chữ "Tội lỗi" là những người khinh chê kinh này, tức là khinh chê các kinh Ðại Thừa mắc tội vô lượng. –
CHÚ THÍCH
115). Bảy đời Phật: Kinh Tràng A Hàm đại bổn nói: "Trước đây 91 kiếp về đời quá khứ, bấy giờ có Phật hiệu là Tỳ Bà Thi (Vipasyin); kế, 31 kiếp trước đây, bấy giờ có Phật hiệu là Thi Khí Như Lai (Sikhin); cũng trong kiếp trên, bấy giờ có Phật Tỳ Xá Bà (Visvahhù); giữa kiếp Hiền đây, trong tiểu kiếp thứ 9 có đức Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda); đức Câu Na Hàm (Kanakmuni); đức Ca Diếp (Kàsyapa). Ta (đức Thích Ca) nay cũng ở trong kiếp thứ 9 của Hiền kiếp này". Kinh Ðại Bi nói: "A Nan! Giữa kiếp Hiền này, sau khi ta nhập diệt rồi, qua tiểu kiếp thứ 10 về sau, còn có 996 đức Phật nữa tiếp tục ra đời, như trước Ta thì đức Câu Lưu Tôn là số 1, ta là số 4, qua tiểu kiếp thứ 10, Di Lặc Phật là số 5. Ðến tiểu kiếp thứ 20, đức Lư Cha Như Lai là số 1.000, ngươi phải biết thứ lớp như thế" (với 1.000 Phật trên xin xem cái biểu đồ ở bộ Nguyên Nhơn Luận). Luận Trí Ðộ nói: "Trước Hiền kiếp 91 tiểu kiếp, ban đầu có Tỳ Bà Thi, giữa tiểu kiếp thứ 31 trước đây có hai đức Phật là Thi Khí, Ðệ Thứ Bà Phụ; trong Hiền kiếp đây có 4 Phật là: Ca la Cưu Xàn Ðà, Ca Na Dà Mưu Ny, Ca Diếp và Thích Ca Mâu Ni". Ba đức Phật trước là Phật ở về khoản rốt kiếp Trang Nghiêm của quá khứ; còn 4 Phật sau là Phật ở về tiểu kiếp thứ 9 trong kiếp trụ giữa nhơn hiền của kiếp hiện tại.
116). Tu sáu pháp niệm. 1. Niệm Phật là từ bi đại Ðạo Sư; 2. Niệm Pháp là tam thế Phật mẫu; 3. Niệm Tăng là nhơn thiên phước điền; 4. Niệm Thiên là trường thọ an lạc; 5. Niệm giới là thân tâm thanh tịnh; 6. Niệm trí là phổ tế bần cùng.
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
SỞ BI GIAI PHẨM (phân ra làm hai phần)
1. Liệu giản (So chọn)
2. Tổng thâu (Tóm thâu)
1. LIỆU GIẢN
CHÁNH VĂN:
Ðã biết kinh Di Ðà đây văn dón, nghĩa đủ, lời gần, ý xa. Nhưng chưa rõ nó sẽ giúp cho căn khí nào và có bao nhiêu từng bậc? Trước nói về cách (Liệu Giản) là so chọn để phân biệt, thì ban đầu (kế sau là giai cấp) là ba hạng người không phải căn khí: 1. Người vô tín; 2. Người vô nguyện; 3. Người vô hạnh; trái lại, đều là người có căn khí (căn cơ).
CHÚ GIẢI:
Trước nói căn khí có phải, có quấy. Sau phân biệt giai cấp, có thắng (hơn), có liệt (thua), cốt yếu là muốn cho chúng sanh biết, đặng buông quấy, theo phải, bỏ liệt, dùng thắng. Tín là tin rằng chúng sanh với Phật không hai; chúng sanh niệm Phật chắc đặng vãng sanh, rốt ráo thành Phật. Như trong kinh đã nói: "Các ngươi đều phải tin theo lời ta". Phải vậy!
Nguyện là vì tin đây không phải chỉ tin suông. Mà phải như con nhớ mẹ, nhìn theo trìu mến, quyết muốn vãng sanh như trong kinh đã nói: "Nên phải phát nguyện, nguyện sanh về quốc độ kia". Thật thế!
Hạnh là vì nguyện không phải chỉ nguyện suông, cần phải thường hành tinh tấn, mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Như trong kinh đã nói: "Phải chấp trì danh hiệu để niệm cho được nhứt tâm bất loạn". Thật vậy.
Ba việc nầy gọi là "ba món tư lương"; tư lương chẳng đủ, không mong gì đi tới trước. Lại nữa ba món này như cái đỉnh có ba chơn. Hoặc đều không, hoặc có một thiếu hai; hoặc có hai thiếu một, đều không thể đứng vững được. Lại dùng lời dụ để rõ: Ví như với năm giống lúa, người không tin là không tin ngay nơi hột giống lúa nầy, là bây giờ trồng bón giống đây, chắc sau đặng thành lúa. Người có tín mà không nguyện: Tuy có biết giống tốt mà không có tâm mong cầu gì đến lúa. Người có nguyện mà không hạnh: Tuy có mong cho được lúa, mà không cần mẫn cày cấy. Với ba món này, hoặc toàn không, hay lẫn thiếu một hoặc hai; xét theo văn nói trên, nên biết (là không được). Ba hạng người này, đều tỷ dụ như món đồ hư bể, không đựng được pháp vị cam lồ nên gọi là Phi Khí. Lại nữa, người đời tuy làm các việc từ thiện, nhưng đối với cõi Phật kia, họ không có Tín, Hạnh, Nguyện, cũng gọi là hạng người Phi Khí. Mặc dầu người có tội lỗi, nhưng đối với cõi Phật kia có đủ Tín, Hạnh, Nguyện cũng gọi là người phải căn khí. Với câu "Trái lại đều là căn khí", như văn sau sẽ nói rõ.
(37)
1. Liệu giản (So chọn)
2. Tổng thâu (Tóm thâu)
1. LIỆU GIẢN
CHÁNH VĂN:
Ðã biết kinh Di Ðà đây văn dón, nghĩa đủ, lời gần, ý xa. Nhưng chưa rõ nó sẽ giúp cho căn khí nào và có bao nhiêu từng bậc? Trước nói về cách (Liệu Giản) là so chọn để phân biệt, thì ban đầu (kế sau là giai cấp) là ba hạng người không phải căn khí: 1. Người vô tín; 2. Người vô nguyện; 3. Người vô hạnh; trái lại, đều là người có căn khí (căn cơ).
CHÚ GIẢI:
Trước nói căn khí có phải, có quấy. Sau phân biệt giai cấp, có thắng (hơn), có liệt (thua), cốt yếu là muốn cho chúng sanh biết, đặng buông quấy, theo phải, bỏ liệt, dùng thắng. Tín là tin rằng chúng sanh với Phật không hai; chúng sanh niệm Phật chắc đặng vãng sanh, rốt ráo thành Phật. Như trong kinh đã nói: "Các ngươi đều phải tin theo lời ta". Phải vậy!
Nguyện là vì tin đây không phải chỉ tin suông. Mà phải như con nhớ mẹ, nhìn theo trìu mến, quyết muốn vãng sanh như trong kinh đã nói: "Nên phải phát nguyện, nguyện sanh về quốc độ kia". Thật thế!
Hạnh là vì nguyện không phải chỉ nguyện suông, cần phải thường hành tinh tấn, mỗi niệm nối nhau không gián đoạn. Như trong kinh đã nói: "Phải chấp trì danh hiệu để niệm cho được nhứt tâm bất loạn". Thật vậy.
Ba việc nầy gọi là "ba món tư lương"; tư lương chẳng đủ, không mong gì đi tới trước. Lại nữa ba món này như cái đỉnh có ba chơn. Hoặc đều không, hoặc có một thiếu hai; hoặc có hai thiếu một, đều không thể đứng vững được. Lại dùng lời dụ để rõ: Ví như với năm giống lúa, người không tin là không tin ngay nơi hột giống lúa nầy, là bây giờ trồng bón giống đây, chắc sau đặng thành lúa. Người có tín mà không nguyện: Tuy có biết giống tốt mà không có tâm mong cầu gì đến lúa. Người có nguyện mà không hạnh: Tuy có mong cho được lúa, mà không cần mẫn cày cấy. Với ba món này, hoặc toàn không, hay lẫn thiếu một hoặc hai; xét theo văn nói trên, nên biết (là không được). Ba hạng người này, đều tỷ dụ như món đồ hư bể, không đựng được pháp vị cam lồ nên gọi là Phi Khí. Lại nữa, người đời tuy làm các việc từ thiện, nhưng đối với cõi Phật kia, họ không có Tín, Hạnh, Nguyện, cũng gọi là hạng người Phi Khí. Mặc dầu người có tội lỗi, nhưng đối với cõi Phật kia có đủ Tín, Hạnh, Nguyện cũng gọi là người phải căn khí. Với câu "Trái lại đều là căn khí", như văn sau sẽ nói rõ.
(37)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
CHÁNH VĂN:
Trong những món đồ phải căn khí lại còn tùy mỗi căn cơ mà có ra từ "Bối" từ "Phẩm" thành ba, thành chín; chín lại nhơn chín; ba lại nhơn ba, phân tích nhiều lần từ ngành ra nữa thì phải nhiều đến vô lượng. Như trong hai bộ nói rõ.
CHÚ GIẢI:
Tiếp theo nói về giai cấp. "Bối" là trong kinh Ðại Bổn nói ba bối. Phẩm là trong Quán kinh nói chín phẩm. Cho nên nói là ba, là chín. Trong ba "bối", mỗi "bối" có ba thì thành ra chín "bối". Trong chín phẩm, lại mỗi phẩm có chín thì thành tám mươi mốt (81) phẩm. Bối đã không cùng. Phẩm cũng không tột thì thành ra trăm nghìn vạn ức "Bối" và "Phẩm", cho nên nói: “Cũng đến vô lượng”. Ðối với cái lẽ: Ðều gọi tu niệm Phật, đồng được vãng sanh. Sở dĩ có phân ra nhiều Bối, Phẩm như vậy là do giữa giới tu niệm có sự, có lý, công hành trì hoặc trễ hoặc siêng, thành thử tùy theo nhơn nào thì kết quả nấy, nên với ngôi bực nó phải sai khác. Cho nên kinh Niết Bàn nói: “Cũng một pháp thập nhị nhơn duyên từng không hai pháp, nhưng mà người bậc hạ trí quán tu thì được đạo quả Thinh Văn. Người bậc trung trí quán tu thì được đạo quả Duyên Giác; người bậc thượng trí quán tu thì được đạo quả Bồ Tát. Người bậc thượng thượng trí quán tu thì được đạo quả Phật”. Cũng như câu: “Ðồng một thức ăn trong một bát, chư thiên thọ dụng có ngon dở khác nhau; cùng một dòng sông, 3 thú lội qua có sâu cạn không đồng” (117) đâu có dối được. Vả lại ta tự phụ là người lợi căn (sáng suốt), nghe nói pháp niệm Phật, hoặc đem lòng khinh dễ, đâu biết Bối và Phẩm có cao có thấp là cốt ở nơi người mà thôi. Nếu quyết không niệm Phật thì phần ngu dốt để lại cho người vậy. Còn kẻ hiếu kỳ ỷ giỏi, xin bình tâm suy nghĩ lại!!
CHÚ THÍCH
117). Cùng chia sâu cạn: Sách Vĩnh Gia Tập nói: “Tỷ như ba con thú voi, ngựa, thỏ đồng lội qua một dòng sông, lại phân biệt nhau về sâu cạn, vì giò của ba con có dài, ngắn khác nhau. Voi dụ Bồ Tát; ngựa tỷ như Duyên giác, thỏ ví Thinh Văn; sông tỷ là lý chơn không của Ðạo. Lý Chơn Như vẫn một, tùy theo trình độ của ba hạng người có cao và thấp nên sự thấy có khác nhau.
Trong những món đồ phải căn khí lại còn tùy mỗi căn cơ mà có ra từ "Bối" từ "Phẩm" thành ba, thành chín; chín lại nhơn chín; ba lại nhơn ba, phân tích nhiều lần từ ngành ra nữa thì phải nhiều đến vô lượng. Như trong hai bộ nói rõ.
CHÚ GIẢI:
Tiếp theo nói về giai cấp. "Bối" là trong kinh Ðại Bổn nói ba bối. Phẩm là trong Quán kinh nói chín phẩm. Cho nên nói là ba, là chín. Trong ba "bối", mỗi "bối" có ba thì thành ra chín "bối". Trong chín phẩm, lại mỗi phẩm có chín thì thành tám mươi mốt (81) phẩm. Bối đã không cùng. Phẩm cũng không tột thì thành ra trăm nghìn vạn ức "Bối" và "Phẩm", cho nên nói: “Cũng đến vô lượng”. Ðối với cái lẽ: Ðều gọi tu niệm Phật, đồng được vãng sanh. Sở dĩ có phân ra nhiều Bối, Phẩm như vậy là do giữa giới tu niệm có sự, có lý, công hành trì hoặc trễ hoặc siêng, thành thử tùy theo nhơn nào thì kết quả nấy, nên với ngôi bực nó phải sai khác. Cho nên kinh Niết Bàn nói: “Cũng một pháp thập nhị nhơn duyên từng không hai pháp, nhưng mà người bậc hạ trí quán tu thì được đạo quả Thinh Văn. Người bậc trung trí quán tu thì được đạo quả Duyên Giác; người bậc thượng trí quán tu thì được đạo quả Bồ Tát. Người bậc thượng thượng trí quán tu thì được đạo quả Phật”. Cũng như câu: “Ðồng một thức ăn trong một bát, chư thiên thọ dụng có ngon dở khác nhau; cùng một dòng sông, 3 thú lội qua có sâu cạn không đồng” (117) đâu có dối được. Vả lại ta tự phụ là người lợi căn (sáng suốt), nghe nói pháp niệm Phật, hoặc đem lòng khinh dễ, đâu biết Bối và Phẩm có cao có thấp là cốt ở nơi người mà thôi. Nếu quyết không niệm Phật thì phần ngu dốt để lại cho người vậy. Còn kẻ hiếu kỳ ỷ giỏi, xin bình tâm suy nghĩ lại!!
CHÚ THÍCH
117). Cùng chia sâu cạn: Sách Vĩnh Gia Tập nói: “Tỷ như ba con thú voi, ngựa, thỏ đồng lội qua một dòng sông, lại phân biệt nhau về sâu cạn, vì giò của ba con có dài, ngắn khác nhau. Voi dụ Bồ Tát; ngựa tỷ như Duyên giác, thỏ ví Thinh Văn; sông tỷ là lý chơn không của Ðạo. Lý Chơn Như vẫn một, tùy theo trình độ của ba hạng người có cao và thấp nên sự thấy có khác nhau.
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
2. TỔNG THÂU
CHÁNH VĂN:
Tổng thâu là cứ niệm danh hiệu Phật ắt được vãng sanh về nước kia: Thì ra hoặc cao, thấp, hoặc thánh, phàm; cho đến hoặc tin, nghi, khen, chê, miễn biết có đức Phật kia là thành được thiện căn rồi, dù lâu đến nhiều kiếp, nhiều đời, đều nhờ đó sẽ được giải thoát.
CHÚ GIẢI:
“Hoặc cao, hoặc thấp” là do sanh phẩm thượng liền được quả Phật, còn sanh ở phẩm hạ, phước cũng hơn cung trời (118). Thế thì phẩm vị tuy khác, nhưng cũng đều được bậc bất thối cả. “Hoặc Thánh, hoặc phàm” là dù hạng phàm phu đủ điều ràng buộc (119) nhưng miễn được vãng sanh thời đồng ngôi với các vị Bồ Tát cu hội một nơi rồi, thế nào cũng sẽ thành quả Thánh. Ðây là nói theo lối thuận. Dưới đây nói tin, nghi, khen, chê gồm cả thuận và nghịch không một hạng nào mà chẳng được lợi ích.
Hỏi: Người tin, người khen được như thế là phải, còn người nghi, người chê vì sao cũng nói có căn lành?
Ðáp: Ông Thường Bất Khinh Bồ Tát thọ ký cho mỗi người được làm Phật. Người nghi không tin đến nỗi đánh mắng ông, nhơn đó chúng bị đọa vào địa ngục. Từ trong địa ngục ra rồi, rốt cuộc cũng được thành đạo. Ðây đâu chẳng phải đánh, mắng là từ nghi sanh ra? Nghi từ biết sanh ra? Biết từ nghe sanh ra? Vì nghe biết có Phật rồi mới sanh nghi. Nếu không nghe biết thì nghi từ đâu mà có? Nhơn vì nghe biết thì một chữ Phật, đã chứa trong tạng thức, như gieo giống xuống đất bỗng gặp mưa, sương thấm nhuần sẽ có ngày nứt mầm, mọc mộng. Người chê Phật cũng nghĩa như thế. Nên nói hễ biết có Phật đều thành thiện căn, rồi rốt cuộc cũng được giải thoát; nếu không nghe, không biết thì không thành hột giống lành.
CHÚ THÍCH
118). Phước hơn thiên cung: Lời tựa sách Qui Nguơn có 2 câu:
"Hạ sanh du thắng bách thiên cung nan nghị ư đồng luận;
thượng phẩm duy cao, nhứt an dưỡng vô cùng chi Cực Lạc".
Ðại ý là:
Người niệm Phật, được vãng sanh dù là ở hạng rất thấp, nhưng hưởng phước vui hơn gấp trăm lần phúc vui của thiên cung;
còn tu niệm Phật được bực cao nhứt càng hưởng phúc vui nhiều đến vô cùng.
119). Cụ phược phàm phu: Phiền não nó trói người đời, đem buộc trong lao ngục sanh tử, gọi là phược; người mà đủ các phiền não, gọi là cụ phược, tức là tất cả phàm phu. Kinh Anh Lạc chép: “Chúng cụ phược phàm phu chưa biết ngôi Tam bảo”. Tức như hiện nay những người mà không biết Phật, Pháp, Tăng, cứ mê sa trong vũng bùn ngũ dục chính là bọn cụ phược phàm phu đó.
(38)
CHÁNH VĂN:
Tổng thâu là cứ niệm danh hiệu Phật ắt được vãng sanh về nước kia: Thì ra hoặc cao, thấp, hoặc thánh, phàm; cho đến hoặc tin, nghi, khen, chê, miễn biết có đức Phật kia là thành được thiện căn rồi, dù lâu đến nhiều kiếp, nhiều đời, đều nhờ đó sẽ được giải thoát.
CHÚ GIẢI:
“Hoặc cao, hoặc thấp” là do sanh phẩm thượng liền được quả Phật, còn sanh ở phẩm hạ, phước cũng hơn cung trời (118). Thế thì phẩm vị tuy khác, nhưng cũng đều được bậc bất thối cả. “Hoặc Thánh, hoặc phàm” là dù hạng phàm phu đủ điều ràng buộc (119) nhưng miễn được vãng sanh thời đồng ngôi với các vị Bồ Tát cu hội một nơi rồi, thế nào cũng sẽ thành quả Thánh. Ðây là nói theo lối thuận. Dưới đây nói tin, nghi, khen, chê gồm cả thuận và nghịch không một hạng nào mà chẳng được lợi ích.
Hỏi: Người tin, người khen được như thế là phải, còn người nghi, người chê vì sao cũng nói có căn lành?
Ðáp: Ông Thường Bất Khinh Bồ Tát thọ ký cho mỗi người được làm Phật. Người nghi không tin đến nỗi đánh mắng ông, nhơn đó chúng bị đọa vào địa ngục. Từ trong địa ngục ra rồi, rốt cuộc cũng được thành đạo. Ðây đâu chẳng phải đánh, mắng là từ nghi sanh ra? Nghi từ biết sanh ra? Biết từ nghe sanh ra? Vì nghe biết có Phật rồi mới sanh nghi. Nếu không nghe biết thì nghi từ đâu mà có? Nhơn vì nghe biết thì một chữ Phật, đã chứa trong tạng thức, như gieo giống xuống đất bỗng gặp mưa, sương thấm nhuần sẽ có ngày nứt mầm, mọc mộng. Người chê Phật cũng nghĩa như thế. Nên nói hễ biết có Phật đều thành thiện căn, rồi rốt cuộc cũng được giải thoát; nếu không nghe, không biết thì không thành hột giống lành.
CHÚ THÍCH
118). Phước hơn thiên cung: Lời tựa sách Qui Nguơn có 2 câu:
"Hạ sanh du thắng bách thiên cung nan nghị ư đồng luận;
thượng phẩm duy cao, nhứt an dưỡng vô cùng chi Cực Lạc".
Ðại ý là:
Người niệm Phật, được vãng sanh dù là ở hạng rất thấp, nhưng hưởng phước vui hơn gấp trăm lần phúc vui của thiên cung;
còn tu niệm Phật được bực cao nhứt càng hưởng phúc vui nhiều đến vô cùng.
119). Cụ phược phàm phu: Phiền não nó trói người đời, đem buộc trong lao ngục sanh tử, gọi là phược; người mà đủ các phiền não, gọi là cụ phược, tức là tất cả phàm phu. Kinh Anh Lạc chép: “Chúng cụ phược phàm phu chưa biết ngôi Tam bảo”. Tức như hiện nay những người mà không biết Phật, Pháp, Tăng, cứ mê sa trong vũng bùn ngũ dục chính là bọn cụ phược phàm phu đó.
(38)
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Re: A DI ĐÀ SỚ SAO
NĂNG THUYÊN THỂ TÁNH (Phân ra làm bốn phần)
1. Tuỳ tướng: Theo tướng văn tự....
2. Duy thức: Chỉ có thức biến...
3. Qui tánh: Ðều về tự tánh...
4. Vô ngại: Sự lý vô ngại...
1. TÙY TƯỚNG
CHÁNH VĂN: Ðã biết kinh Di Ðà này trùm khắp các cơ, nhưng chưa rõ lý năng thuyên lấy gì làm thể tánh? Y theo xưa lần lượt chia ra làm mười môn. Xét tận gốc, tóm lại thành bốn môn. Trước nói Tùy tướng, trong ấy lại chia ra làm hai:
1. Thinh, Danh, Cú, Văn.
2. Nghĩa sở thuyên Do vì văn với nghĩa đều thuộc về tướng văn tự.
CHÚ GIẢI:
Lần lượt chia ra mười môn (121) rõ thấy trong lời Huyền Ðàm của kinh Hoa Nghiêm. Ngài KHUÊ PHONG đối trong ấy tóm ghép lại làm thành bốn môn:
1. Thinh, Danh, Cú, Văn, là cứ theo kinh giáo Ðại thừa, Tiểu thừa, hoặc có kinh dùng Thinh làm giáo thể; hoặc có kinh dùng Danh, Cú và Văn thân để làm giáo thể. Nay theo Ngài Thanh Lương đại sư dùng hết bốn món. Lấy Thinh làm giáo thể; Danh là thứ lớp, hàng ngũ để giải tự tánh của pháp; Cú là thứ lớp sắp đặt để giải sự sai biệt của pháp; Văn là thứ liên hợp, kết làm chỗ nương cho hai món trên. Danh, Cú, Văn ba món đây tráo trở cho tiếng nói hình dung tỏ rõ ra. Bởi chỉ có một Thinh thì không thể giải rõ nghĩa được; còn riêng Danh, Cú, Văn thì không có tự thể; cho nên gồm cả bốn món nầy mới đủ làm giáo thể, do gồm cả giả, thật, thể, dụng giúp nhau vậy.
2. Nghĩa sở thuyên là: Thinh, Danh, Cú, Văn bốn món này nếu không có nghĩa gì để làm chỗ sở thuyên (bị nói) thì đồng như thiên vận (122) suông, chớ không có ý vị chi cả. Còn nếu chỉ có nghĩa suông mà không có văn tự thời lý mầu do đâu để được hiển bày. Bởi thế cho nên văn tự tùy theo nghĩa, nghĩa tùy theo văn tự. Văn nghĩa lẫn giúp mới thành giáo thể. Vì vậy cho nên kinh này từ câu "Như thị ngã văn" đến câu "Tác lễ nhi thối", đó là cái thể của Thinh, Danh, Cú, Văn mà trong đây nói những y báo, chánh báo, tín, nguyện, vãng sanh v.v... là những nghĩa sở thuyên vậy. Dùng cả hai món này (văn nghĩa) nương lẫn nhau để làm giáo thể.
CHÚ THÍCH
121). Mười môn: 1. Âm thinh ngữ ngôn; 2. Danh cú văn thân; 3. Thông dùng 4 pháp; 4. Các pháp rõ nghĩa; 5. Thâu cảnh chỉ tâm; 6. Gồm duyên vào không; 7. Lý sự thắng ngại; 8. Suốt gồm sở thuyên; 9. Sự sự không ngại; 10. Ấn bể rõ bày.
122). Thiên Vận: Thiên:Văn tự trong một bài, cả từ đầu chí cuối, gọi là một thiên, như Thượng thiên, Hạ thiên... Vận: Vần bình vần trắc v.v...
1. Tuỳ tướng: Theo tướng văn tự....
2. Duy thức: Chỉ có thức biến...
3. Qui tánh: Ðều về tự tánh...
4. Vô ngại: Sự lý vô ngại...
1. TÙY TƯỚNG
CHÁNH VĂN: Ðã biết kinh Di Ðà này trùm khắp các cơ, nhưng chưa rõ lý năng thuyên lấy gì làm thể tánh? Y theo xưa lần lượt chia ra làm mười môn. Xét tận gốc, tóm lại thành bốn môn. Trước nói Tùy tướng, trong ấy lại chia ra làm hai:
1. Thinh, Danh, Cú, Văn.
2. Nghĩa sở thuyên Do vì văn với nghĩa đều thuộc về tướng văn tự.
CHÚ GIẢI:
Lần lượt chia ra mười môn (121) rõ thấy trong lời Huyền Ðàm của kinh Hoa Nghiêm. Ngài KHUÊ PHONG đối trong ấy tóm ghép lại làm thành bốn môn:
1. Thinh, Danh, Cú, Văn, là cứ theo kinh giáo Ðại thừa, Tiểu thừa, hoặc có kinh dùng Thinh làm giáo thể; hoặc có kinh dùng Danh, Cú và Văn thân để làm giáo thể. Nay theo Ngài Thanh Lương đại sư dùng hết bốn món. Lấy Thinh làm giáo thể; Danh là thứ lớp, hàng ngũ để giải tự tánh của pháp; Cú là thứ lớp sắp đặt để giải sự sai biệt của pháp; Văn là thứ liên hợp, kết làm chỗ nương cho hai món trên. Danh, Cú, Văn ba món đây tráo trở cho tiếng nói hình dung tỏ rõ ra. Bởi chỉ có một Thinh thì không thể giải rõ nghĩa được; còn riêng Danh, Cú, Văn thì không có tự thể; cho nên gồm cả bốn món nầy mới đủ làm giáo thể, do gồm cả giả, thật, thể, dụng giúp nhau vậy.
2. Nghĩa sở thuyên là: Thinh, Danh, Cú, Văn bốn món này nếu không có nghĩa gì để làm chỗ sở thuyên (bị nói) thì đồng như thiên vận (122) suông, chớ không có ý vị chi cả. Còn nếu chỉ có nghĩa suông mà không có văn tự thời lý mầu do đâu để được hiển bày. Bởi thế cho nên văn tự tùy theo nghĩa, nghĩa tùy theo văn tự. Văn nghĩa lẫn giúp mới thành giáo thể. Vì vậy cho nên kinh này từ câu "Như thị ngã văn" đến câu "Tác lễ nhi thối", đó là cái thể của Thinh, Danh, Cú, Văn mà trong đây nói những y báo, chánh báo, tín, nguyện, vãng sanh v.v... là những nghĩa sở thuyên vậy. Dùng cả hai món này (văn nghĩa) nương lẫn nhau để làm giáo thể.
CHÚ THÍCH
121). Mười môn: 1. Âm thinh ngữ ngôn; 2. Danh cú văn thân; 3. Thông dùng 4 pháp; 4. Các pháp rõ nghĩa; 5. Thâu cảnh chỉ tâm; 6. Gồm duyên vào không; 7. Lý sự thắng ngại; 8. Suốt gồm sở thuyên; 9. Sự sự không ngại; 10. Ấn bể rõ bày.
122). Thiên Vận: Thiên:Văn tự trong một bài, cả từ đầu chí cuối, gọi là một thiên, như Thượng thiên, Hạ thiên... Vận: Vần bình vần trắc v.v...
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Đang trực tuyến
Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến. và 9 khách