Tháng bảy Âu Châu đại chiến (1914).
Nhật Bổn tấn công tỉnh Giao Châu và Thanh Đảo của Trung Quốc.
Một chuyện lạ xảy ra: Có một vị cư sĩ ở huyện Đặng Xuên, họ Đinh, đã làm quan Hiếu Liêm đời nhà Thanh. Họ Đinh có đứa con gái mười tám tuổi. Một hôm không biết thế nào, cô con gái bỗng bất tỉnh nhặn ngã đùng ra. Trọn gia đình đều hoảng hốt, sợ hãi. Một chập lâu cô ta tỉnh lại, ngồi dậy nói chuyện thì là giọng nói người đàn ông. Nó đứng phắt lên chỉ ngay vào mặt cha là Đinh Hiếu Liêm, giận dữ và mắng lớn:
- Thằng họ Đinh này, mầy cậy thế vu cáo ta là thổ phỉ, khiến ta phải mất mạng. Ta là người đất Tây Xuyên, phủ Đại Lý, tên là Đồng Chiến Bưu đây. Mầy có nhớ chăng? Nay ta lại Diêm Đường tố cáo ngươi để báo cừu tám năm về trước.
Nói xong, nó cầm dao rượt chém. Ông họ Đinh sợ hãi chạy trốn không dám về nhà.
Trong lúc ấy, quỷ cứ mỗi ngày nhập về làm cho cả nhà bối rối lo âu! Làng xóm kéo nhau đến xem như hội.
Lúc ấy, chùa Kê Túc Sơn có hai vị sư là Tố Cẩm và Tố Trị đến đất Đằng Xuyên làm Phật sự. Đi ngang qua nhà họ Đinh, thấy người, hai sư cũng lại vào xem. Thấy quỷ đang hành hung, một vị tăng nói:
- Ông không nên làm như thế. Cho tôi xin. Làm như vậy khiến cho dân chúng địa phương không yên.
Quỷ xừng xỏ đáp:
- Ông là người xuất gia, không nên nhiều chuyện. Việc tôi mặc tôi, ông chớ xen vào.
Nhà sư đáp:
- Đúng như vậy. Việc này chẳng quan hệ gì đến tôi. Nhưng sư phụ tôi thường nói "Oan gia nên mở chẳng nên buộc, Càng buộc thì càng chắc, biết bao giờ mới dứt được".
Quỷ ra chiều suy nghĩ một chập rồi hỏi:
- Thầy ông là ai?
- Sư phụ tôi là Hư Vân hòa thượng trụ chùa Chúc Thành.
- Ừ, ta có nghe danh mà chưa gặp. Nhưng không biết Hòa thượng có bằng lòng quy y cho ta không?
- Hòa thượng hành đạo đại từ đại bi độ nhất thiết khổ, làm gì mà không chịu.
Nói xong nhà sư day qua nói chuyện với người đứng cạnh bảo họ Đinh bỏ tiền ra đàn cầu siêu cho quỷ.
Vừa nghe được, quỷ nhất định la lên:
- Không, không! Nó làm tổn thương thiên lý và hại mất mạng ta. Ta không cần tiền và vật của nó đâu.
Vị sư bèn quay sang người hàng xóm khuyên :
- Vậy thì tôi xin bà con quí vị ở xóm đây chung góp làm lễ siêu độ, thì địa phương mình cũng được phúc và yên ổn đó.
Mọi người đều đồng ý. Quỷ với một giọng lớn đầy uất hận:
- Thù này chẳng báo thì biết bao giờ cái giận của ta mới nguôi. Nhưng kẻ trả thù thì oan oan tương báo, biết chừng nào dứt? Thôi, để ta đi hỏi Đại vương ta coi. Ngày mai nhà sư trở lại đây chờ ta nhé.
Quỷ xuất đi rồi, người con gái họ Đinh tỉnh lại như thường, bỡ ngỡ lui vào nhà trong.
Hôm sau, quỷ đến sớm, chờ. Khi hai nhà sư đến nó trách là lỗi hẹn.
Hai sư bảo:
- Vì chút Phật sự, nên đến trễ một chút thôi.
Quỷ nói:
- Ta hỏi Đại vương rồi, Đại vương nói: "Chùa Chúc Thành là một đạo tràng tốt", nên ta quyết tới đó. Xin nhờ sư thân đưa ta đi.
Thế là ngày hôm sau, một số thân hào địa phương này cùng hai vị sư đến chùa. Khi nghe bạch đầu đuôi sự việc Hư Vân thiết đàn tụng kinh và thuyết giới cho quỷ.
Năm Dân Quốc thứ năm (Bình Thìn) - Hư Vân bảy mươi tuổi:
Tượng Phật ngọc của cư sĩ Cao Vạn Bang tặng đã trải qua mấy năm chưa chuyển về được chùa, còn để tại Quán Âm Đình, vì nặng quá không thể cung thỉnh về Kê Túc Sơn một lượt với Long Tạng Kinh.
Hư Vân hòa thượng bèn đi Nam Dương lo sắp xếp đưa tượng về. Nghe nói địa phương này có nhiều người tin tưởng Phật giáo, nên nhân dịp Hòa thượng đến các địa phương Chưởng Đạt, Man Miên, Oa Tán, Lạp Tán để nhìn xem phong khí rồi đến Ngưỡng Nam (Rangooon) lễ Đại Kim Tháp và tìm Cao cư sĩ.
Ở chùa Long Hoa, Hòa thượng giảng xong kinh rồi đáp tàu đến Tân Gia Ba (Singapore).
Khi tàu đến Tân Nhai, các quan Tây ở đây đã cáo thị: "Tất cả dân Hoa kiều đến đây đều phải được giữ lại tra xét rõ ràng rồi mới được cho đi. Thế là mấy trăm hành khách ở trên tàu đều bị đưa đến nhà giam. Sau khi thẩm vấn lượt đầu, trừ sáu vị chúng tôi mà họ cho là thuộc đảng cách mạng và cho nhốt riêng.
Họ trói chúng tôi, đánh đập đủ điều và đem ra phơi nắng, bắt đứng không được nhúc nhích. Ai nhúc nhích cựa động là đòn liền vào đâu. Ăn uống thì chẳng có gì mà cũng chẳng cho đi tiểu tiện. Như vậy suốt một ngày từ năm giờ sáng đến tám giờ tối. Có một số đệ tử là Hồng Thạnh Tường và Đông Lão Bận hay biết tin tức, đến nhà giam xin lãnh chúng tôi ra với điều kiện là phải nộp năm ngàn đồng mỗi đầu người.
Sau khi ra khỏi nơi này, Sư lưu lại đây để qua năm và lo chuyên chở tượng ngọc Phật về chùa.
Năm Dân Quốc thứ sáu (Đinh Tỵ) - Hư Vân bảy mươi tám tuổi:
Mùa Xuân, từ Quán Âm đình bắt đầu công việc chở tượng ngọc Phật.
Tám người lực lưỡng được thuê đảm trách việc này. Giá cả đâu đó điều đình giao ước rõ ràng và đôi bên cùng đồng ý chấp nhận lộ trình từ Quán Âm đình đến chùa Chúc Thành, Kê Túc Sơn.
Hành trình trải qua nhiều núi non, đường lối kỳ khu... và đã đi được mấy chục ngày, đường sá hết sức hiểm trở, làm cho tượng đá đã nặng lại càng nặng thêm.
Một hôm, đến núi Dã Nhân, bọn phu lại sanh bụng nghĩ rằng trong lòng tượng có nhiều bạc vàng, châu báu, đồng tuyên bố không còn sức để khiêng nữa.
Sư khuyên chúng lắm điều lắm lượt mà chúng không đổi ý, chúng đòi tăng tiền công gấp đôi và nhất định không tiếp tục cuộc vận tải nếu yêu sách của chúng không được thỏa mãn. Liếc thấy gương mặt, cử chỉ của chúng, lóng nghe giọng nói của chúng, Hòa thượng biết lòng chúng sanh biến. Không thể lấy lời nhẹ nhàng và lý lẽ khuyến dụ được. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu óc của Sư, khi Sư thấy bên cạnh đường có một tảng đá rất to, ước chừng nặng đến mấy trăm cân. Vui vẻ và tự nhiên, Sư chỉ đá và hỏi:
- Các anh em xem, cục đá kia với pho tượng này đàng nào nặng hơn?
Mọi người đều đáp:
- Tảng đá nặng hơn ít ra cũng hai ba lần.
Không nói năng gì, Hòa thượng vén tay áo, bước đến nhấc bổng tảng đá lên, dời khỏi chỗ đó hơn một thước.
Bọn phu le lưỡi, lắc đầu sợ hãi, nhô nhô xin lỗi:
- Hòa thượng là Phật sống, chúng con xin xám hối.
Chẳng dám nói năng eo sách đòi hỏi gì nữa, chúng một mực ráp lại khiêng tượng và đến hôm sau thì tới nơi.
Sư trọng thưởng chúng một số tiền khá nhiều.
Bấy giờ nghĩ lại chuyện này, khi thuật lại, Hòa thượng thú nhận thật không biết tại sao mình lại có sức mạnh đở và dời tảng đá được như vậy, hình như là có Long thần Hộ pháp ám trợ.
Năm Dân Quốc thứ bảy (Mậu Ngọ) - Hư Vân bảy mươi chín tuổi:
Tháng sáu, hai ông Trương Huân và Khang Hữu Vy ủng hộ vua nhà Thanh bị truất phế làm vua trở lại, nhưng thất bại.
Phùng Quốc Chương lên thay là Đại Tổng Thống.
Tháng chín, ông Tôn Trung Sơn ở Quảng Đông được cử làm Đại Nguyên soái.
Bấy giờ, Đô đốc Đường Kế Nghiêu cho nhân viên mang thơ đến thăm hỏi Sư và hạ lệnh cho viên Tri huyện Tân Xuyên đến chùa mời Sư đến Côn Minh. Nể lòng và vì có thơ khẩn khoản yêu cầu của Đường Phái Viên, Hòa thượng phải rời Kê Túc Sơn về Vân Nam.
Lúc ấy đường đi rất gian nguy, tặc phỉ đón đường cướp của là chuyện thường.
Huyện quan biết thế, ý muốn phái binh hộ tống, nhưng Hòa thượng khước từ, mà chỉ cùng đi bộ với một đồ đệ là Tu Viện, đeo theo mình một nón lá, một chiếu cỏ, ít đồ dùng và ít quần áo cần thiết.
Tới truông Sở Hùng, gặp cướp đón đường. Chúng khám xét và lấy được thơ của Đô đốc Đường. Chúng làm dữ, muốn khảo đánh thầy trò Sư.
Sư bảo:
- Khỏi cần đánh đập, tôi muốn gặp viên Tổng Tư lệnh của các ông đây!
Chúng liền dẫ Sư và đồ đệ đến trước viên thủ lĩnh của chúng là Dương Thiện Phúc và Ngô Ngọc Hiển.
Khi gặp Sư, một trong hai tên hét to:
- Ông là ai?
- Hòa thượng núi Kê Túc.
- Tên gì?
- Hư Vân.
- Đi xuống tỉnh làm gì?
- Làm Phật sự.
- Làm Phật sự là làm cái quái gì?
- Vì nhân dân, cầu tiêu tai họa.
- Đường Kế Nghiêu là thằng ăn cướp mà Hòa thượng lại chịu nhọc nhằn đến giúp nó à? Nó là một con người rất xấu, một thứ đồ bỏ. Hòa thượng mà lui tới với nó rồi cũng thành xấu và đồ bỏ như nó thôi.
Sư đáp:
- Ông nói đến hạng người xấu, đồ bỏ, âu cũng khó mà nhận định được và cũng không phải dễ mà nói đến hạng người ấy.
- Nói như thế nghĩa là sao?
Đáp:
- Nếu quý ông đây và ông Đường đều là người vì dân vì nước, làm điều phước đức cho dân. Đến như những kẻ tay chân bộ hạ của quý ông cũng đều như thế cả, thì há chẳng phải người người đều tốt ư? Còn theo như chỗ xấu mà nói, nếu quý ông đây và ông họ Đường đều là người xấu, là bỏ đi, thì ông họ Đường cũng cho quý ông là xấu, là bỏ đi, là hạng chẳng ra gì vậy.
Đến nơi tốt thì ai cũng là người tốt. Đến chỗ hỏng thi kẻ kẻ đều là xấu, là bỏ đi.
Nếu như mọi người đều có thành kiến riêng, chống nhau như nước với lửa, thì chẳng sớm và muộn binh liền họa kết hại hết nhân dân, như vậy há chẳng phải kẻ kẻ đều là người bỏ, người hỏng hết sao?
Người dân còn biết trông cậy và theo bên nào? Theo phía trái, người dân lành là trộm cướp. Ngã phía mặt, họ là giặc thổ phỉ! Đáng thương hại biết bao!
Hai tên đầu lãnh nghe xong đều cười. Tên họ Ngô nói:
- Theo ông nói thì chẳng sai! Nhưng biết là sao cho tốt được?
Sư đáp:
- Theo như tôi thì các ông chẳng nên đánh nhau làm chi. Nếu nhị vị không chủ chiến, xin thỉnh nhị vị chiêu an.
- Như thế là Hòa thượng bảo chúng tôi đầu hàng sao?
- Không phải đâu. Tôi nói "chiêu an" là nghĩa như thế này: Nhị vị đây là bậc hiền tài, đáng cho quốc gia kêu gọi (đó là chiêu) để đem lại an ninh hạnh phúc cho địa phương. Chỉ xin nhị vị đừng giữ ý riêng tư, thì an dân cứu nước há không phải là việc tốt sao? Vì ràng các ông đây và ông Đường đều là người hiền tài của xứ sở.
Tên họ Ngô nói tiếp:
- Bây giờ phải hướng về chỗ nào để làm việc này?
- Phải day về cùng với họ Đường vậy.
- Không thể được. Họ Đường đã giết hết bao người của chúng tôi và còn đang giam giữ rất nhiều người khác của chúng tôi. Hôm nay chúng tôi chỉ muốn day về ông ta để báo thù há lại đi đầu hàng ông ta là có lý nào.
- Xin các ông đừng hiểu lầm lời nói của tôi. Tôi nói "Day về" với họ Đường để làm việc này là vì hiện nay ông họ Đường là quan sứ của chánh phủ trương ương, ông nắm quyền hành trong tay. Và ở tương lai, ông ta cũng là quan sứ của chánh phủ trung ương.
Về sau, nhị vị đây cũng sẽ là quan sứ như ông Đường, trong tay có nhiều quyền hành.
Ông Đường đã giết nhiều người của các ông, tôi đi chuyến này là để làm Phật sự siêu rỗi cứu độ hết những vong hồn binh sĩ. Còn như những người của các ông bị ông Đường bắt giam giữ, thì đi lần này tôi cũng xin ông Đường đại xá phóng thích hết.
Nếu như các ông không chấp nhận lời tôi nói mà cứ bạo động, thì xưa nay trong chỗ chiến tranh, thắng bại khó nói trước được. Đem đôi bên đối chiếu, thì nhị vị và họ Đường, mỗi bên đều có lực lượng, nhưng xét cho cùng thì khó mà đem hai ông ra so sánh với họ Đường. Tại sao? Chỉ vì họ Đường có người có của, có phương tiện hỗ trợ, có trung ương hậu thuẫn.
Tôi hôm nay, thật không có ý tìm nhị vị để chiêu an, nhưng giữa đường gặp chuyện, nên vì nước vì dân mà nói cho dứt chiến tranh, đem lại an lạc chung cho đất nước. Đó là điều nguyện của kẻ tu hành này.
Dương Thiên Phước và Ngô Ngọc Hiển đều cảm động khi nghe Sư thuyết, bèn xin Hòa thượng đứng ra thay mặt cho họ điều đình với Đường Phái Viện.
Hòa thượng nói:
- Làm đại biểu cho nhị vị thì tôi không dám. Xin các ông nêu ra điều kiện. Khi gặp cơ hội, tôi sẽ nói chuyện với họ Đường.
Hai ông Dương, Ngô bàn luận với nhau đôi ba lượt, nêu ra sáu điều kiện như sau:
- 1. Trước khi chiêu an, phải thả những người của chúng tôi bị bắt.
2. Không được giải tán binh đội của chúng tôi.
3. Không được thủ tiêu chức quyền của chúng tôi.
4. Hàng ngũ quân đội của chúng tôi do chúng tôi nắm giữ và điều khiển.
5. Cuộc chiến đôi bên đã xảy ra trong quá khứ, chẳng nên đem ra cứu xét nữa.
6. Sau khi chiêu an, quan sĩ hai bên phải được đãi ngộ giống nhau.
- Những điều kiện này, theo tôi không có gì là khó mà không chấp nhận và thi hành được. Hãy đợi khi tôi thảo luận với ông Đường. Sau đó sẽ có công văn chánh thức đến nhị vị để cùng bàn bạc thêm.
Ông Ngô nói:
- Chúng tôi rất tin tưởng và vô cùng cảm tạ thâm ân!
Sư liền kiếu từ.
Hai ông này cho sửa sang xe ngựa, quân hộ vệ, đưa theo lương thực và tiền lộ phí. Sư đều khước từ, chỉ nhận một ít lương thực mang theo ăn đường mà thôi.
Khi ra khỏi trại, Sư gặp ngay một số người quỳ sắp hàng hai bên đường lạy Sư. Nhìn rõ thì là những người lính hôm qua đã hành hung và toan đánh đập Sư. Hòa thượng an ủi và khuyên họ từ nay đừng làm những chuyện không lành. Tất cả đều cảm động và ứa lệ.
Hòa thượng đi lần đến Côn Minh. Đô đốc họ Đường tiếp đón rất thân mật, đưa Sư về chùa nghỉ ngơi. Hôm sau lại gặp nhau, ông Đường Kế Nghiêu tâm sự:
- Cùng Pháp sư xa cách có mấy năm mà gia đình tôi có lắm điều biến đổi, đau buồn. Cha tôi, vợ tôi và người con trai tôi kế tiếp nhau qua đời. Lòng buồn không dứt, lại thêm thổ phỉ khắp nơi nổi dậy, nhân dân không yên sống, quân binh tướng sĩ chết và bị thương rất nhiều. Hồn oan vất vưởng đó đây, không an định. Tôi thấy cần thực hiện ba việc như sau:
- 1. Thiết một đàn tràng, làm một Phật sự rộng rãi, cầu Phật gia bị tiêu tai ách, cầu siêu cho các vong linh.
2. Lấy chùa Viên Thông làm một đại tòng lâm để hoằng dương Phật pháp.
3. Xây dựng một trường Đại học quy mô để giáo dục thanh niên.
Hoan hỷ, Sư đáp:
- Ông phát nguyện rất lớn. Kẻ tu hành này tự xét chưa đủ năng lực và đức hạnh để gánh vác. Phải có nhiều Đại đức kết hợp mới thực hành được. Trong nước, hiện nay có nhiều bậc tu hành đạo đức cao thâm. Riêng tôi thấy địa điểm chùa Viên Thông chưa đáp ứng và thích hợp cho một cảnh đại tòng lâm như ý ông muốn, vì rồi đây, sau khi kiến thiết xong sư tăng trụ trì phải đông đảo. Xin ông để cho tôi suy xét lại khoản này.
Còn như việc siêu đàn Phật sự thì nay tôi sẵn sàng thay ông gánh vác.
Ông Đường đáp:
- Đại sư bảo địa thế chùa Viên Thông không thích hợp cho việc xây dựng một ngôi chùa đại quy mô, ý kiến rất cao và hay. Chính tôi cũng thấy thế. Vậy việc đó sau này chúng ta sẽ bàn. Còn như làm Phật sự cầu siêu thì Sư định tiến hành như thế nào?
Sư đáp:
- Tâm và Phật cùng một thể. Ông làm việc này là vì nước vì dân, nơi tối tăm, nơi sáng sủa đều được lợi! Theo ý tôi, trước khi làm Phật sự, ông cần quyết định ba việc này:
- 1. Ngày cử hành, khi nơi bắt đầu hành lễ, tụng kinh được trọn vẹn, cả nước này không được giết chóc.
2. Đại phóng thích tù nhân.
3. Phát chẩn cứu giúp người dân bị nạn, bần cùng.
- Việc thứ nhất và thứ ba thì có thể thực hiện ngay liền. Còn việc thứ hai là thuộc quyền Tư pháp của Chánh phú Trung ương, tôi không tự chủ được.
Hòa thượng nói:
- Hiện nước nhà nhiều việc, Chánh phủ Trung ương đã chẳng có thể ngó ngàng tới. Thiết tưởng ông chỉ cần người đứng đầu đại diện Bộ Tư pháp ở đây thương lượng châm chước mà làm thì có thể được, để đón sự tốt đẹp lành hiền của trời đối với chúng dân, người sống cũng như người quá vãng.
Nghe xong, ông Đường gật đầu, rất hài lòng lòng và bảo:
- Ngài nhắc khéo, tôi sẽ uyển chuyển làm xong việc này.
Luôn đà, Hư Vân thuật lại câu chuyện trên đường đi đến đây gặp Dương Thiên Phúc và Ngô Ngọc Hiển, và nói:
- Nhờ cuộc đại xá này, ông rộng lượng phóng thích người của họ và tỏ lòng hòa hưỡn, mong muốn hòa bình, đem lại an lạc cho chúng dân thì việc chiêu an đối với họ không có gì khó khăn vậy. Phương chi việc làm của ông đây, một công mà ông hoàn thành được hai việc lớn, thật là đại phúc đức cho đất nước. Bao nhiêu lũ giặc chòm xóm khác nhau rồi sẽ quay về với ta.
Thế là cuộc cầu an siêu độ được thực hiện kết quả và công cuộc chiêu an cũng thành công mỹ mãn.