Chương trình & thời khóa tu học An cư kiết hạ của Phật giáo Đại Việt thời Trần (phần II)

Về phương diện pháp hành, Giáo hội Trúc Lâm chủ trương hành trì Giới, Định, Tuệ để thăng chứng giác ngộ. Điểm nổi Phật của Phật giáo Trúc Lâm là "Phật tại tâm", bất cứ ai chỉ cần lòng lặng mà biết cũng có thể trở thành thành viên của Phật giáo, trở thành vị Phật ở đời, để đi vào đời độ đời, đúng như lời sư Trúc Lâm từng khuyến cáo vua Trần Thái Tông:"Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm. Lòng lặng mà biết, đó chính là chân Phật". Thế nên, các hành giả an cư cần hành trì giới, nhờ giới thanh tịnh mà tâm không loạn, tâm an tịnh mới an trú trong định..., đúng như Tổ Pháp Loa dạy trong Khuyến chúng Thượng thừa Tam học: "Sau khi thấy tánh phải giữ gìn giới cho thanh tịnh? Nghĩa là trong 12 giờ (24 giờ hiện nay - ND), ngoài dứt các duyên, trong tâm không loạn. Vì tâm không loạn động nên cảnh đến an nhàn. Mắt không vì cái sở duyên của cảnh mà chui vào. Ra vào không giao thiệp nên gọi là ngăn chặn. Tuy ngăn chặn mà không phải ngăn chặn. Tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy. Đó gọi là giới Đại thừa, là giới vô thượng, cũng gọi là giới vô đẳng đẳng. Tịnh giới này, tiểu tăng cho đến bậc đại tăng đều phải gìn giữ". Rõ ràng, sự giữ này bắt nguồn từ sự gìn giữ 6 căn thanh tịnh, không để 6 trần nhiễm hại. Có thể xem đây là chủ trương gìn giữ giới luật của Thiền tông, là nét đặc thù quan trọng trong hệ thống Luật tông mà các thiền sư thực thi hành trì.

lythaito-1.jpg

Đường lên chùa Hoa Yên - Yên Tử

Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gì, Tam Tổ thực lục ghi rằng các tu viện thời này, thường áp dụng nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi của nhà vua - thiền gia Trần Thái Tông - người đặt nền móng tư tưởng cho thiền phái Trúc Lâm ra đời, biên soạn. Đây là phương thức hành thiền phù hợp với tâm thức người Việt, bằng cách sám hối, tẩy rửa 6 căn đối với 6 trần, ứng với 6 thời bái sám trong một ngày đêm, không cho bụi bặm khách trần đeo bám, từ đó bước vào thế giới hành trì thiền định. Sự bái sám này không chỉ thực hiện trong ba tháng an cư mà còn hành trì quanh năm suốt tháng. Mục đích là đưa hành giả trở về chân tâm thanh tịnh. Cũng theo sách này, Pháp Loa và Huyền Quang vẫn chủ trương cho các hành giả hành trì Mật giáo, Tịnh độ theo phong thái Thiền; nghĩa là trì tụng thần chú để gia trì định lực; niệm Phật là để đi đến nhất tâm bất loạn.

Tuy nhiên, việc thực tập thiền định không phải dễ dàng thực hiện. Các thiền sư cũng tùy theo căn cơ trình độ của mỗi thiền sinh trong các đạo tràng an cư mà tổ chức các thời khóa thực tập thiền. Các vị hành giả được sự hướng dẫn lý thuyết về phương thức hành thiền cụ thể, sau đó là thực tập thiền định. Đối với những tịnh nghiệp đạo tràng lớn, các trung tâm an cư kiết hạ có số lượng hành giả quá đông như đại bản sơn Yên Tử, Quỳnh Lâm, Vĩnh Nghiêm…., vị thiền sư không đủ thời gian trả lời. Do đó, vị Thiền chủ sẽ tổ chức các buổi đại tham để mọi hành giả có cơ hội tham cứu, thoại đầu xoay xung quanh các đề tài Phật pháp, sinh tử, bản thể, vô thường… Thường các hành giả có căn cơ đại trí mới dám đặt câu hỏi, vì Thiền sư thường hay lật ngược các câu hỏi của thiền sinh; hay dùng lối nói nghịch ngữ, phi logic; hoặc dùng phương thức hỏi một đường đáp một ngả nhằm khai mở tâm thức người học cho đến khi nào ngộ được yếu chỉ Thiền thì thôi. Sách Tam Tổ thực lục cũng ghi lại những cuộc đại tham của Điều ngự Giác hoàng với các thiền sinh, chẳng hạn: "Thế nào là một việc hướng thượng? Sư đáp: Khèo nhật nguyệt trên đầu tích trượng. Lại hỏi: Dùng công án cũ mà làm gì? Đáp: Mỗi lần dùng đến lại thành mới tinh. Hỏi: Thế nào là truyền riêng ngoài giáo điển? Đáp: Con ễnh ương nhảy không khỏi cái đấu".

Ngoài những đại tham, có những cuộc tiểu tham xảy ra tùy theo những cơ duyên khác nhau, căn cơ khác nhau bên ngoài pháp tòa giữa các thiền sinh với nhau, hoặc các thiền sinh với thiền chủ… nhằm khai mở các vấn đề đã từng ưu tư, trăn trở, nghi vấn, để bước vào thế giới Thiền.

Với nội dung chương trình tu học bảo đảm tính tri hành hợp nhất như thế, do đó, thời khóa tu tập của chư Tăng, Ni trong các thiền đường đời Trần, hầu như được các vị Thiền chủ, Ban quản trị bố trí kín từ 4 giờ sáng cho đến 22 giờ chỉ tịnh. Ngoài việc chấp tác, thực thi các thời khóa, bái sám, quá đường, tọa thiền, các hành giả còn phải tham gia học luật, các buổi giảng kinh Đại thừa, tham dự các buổi đại tham, tiểu tham do Tam tổ Trúc Lâm chủ trì. Rõ ràng, trong bối cảnh lịch sử cả dân tộc phát huy nội lực, đề cao ý thức độc lập tự chủ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, kể cả tôn giáo để xây dựng đất nước, việc Giáo hội Trúc Lâm xem an cư kiết hạ là một trong chương trình Phật sự trọng tâm của Phật giáo cần được thực thi hàng đầu cũng không ngoài mục đích chung ấy. Suy cho cùng, mục đích an cư kiết hạ của giới xuất gia Phật giáo là nâng cao trình độ thẩm thấu giáo nghĩa Phật đà, hướng đến trưởng dưỡng nội tâm, thành tựu Phật tâm ngay giữa đời này. Một khi giới đức được nghiêm tịnh, tâm thức định tĩnh, trí tuệ khai mở, thì tự thân mỗi cá nhân sẽ tự hoàn thiện cho chính mình và có khả năng đóng góp tích cực cho cộng đồng xã hội.

lythaito-2.jpg

Nhìn chung, đặc tính của Phật giáo Trúc Lâm đời Trần là nhập thế tích cực cho đời và làm cho đời sáng tươi. Chính tinh thần này mà Giáo hội đã được các vương triều nhà Trần ủng hộ, quần chúng tin theo, điều đó cũng có nghĩa các Tăng sĩ đời Trần là những nhà tu hành có giới đức thanh tịnh, định lực kiên cố, và trí tuệ thăng chứng đã góp phần làm cho đạo pháp trường tồn, dân tộc hưng thịnh, nhân dân an lạc. Mỗi kỳ an cư là mỗi lần Giáo hội cùng phối hợp với triều đình có chủ trương xây dựng, thiết kế chương trình tu học thời khóa thật cụ thể, để sau một mùa an cư đều đem lại sự đắc pháp cho các hành giả và lợi lạc cho mọi người dân Phật tử. Trên hết, an cư kiết hạ đã làm sống dậy tinh thần Phật giáo Trúc Lâm, góp phần làm nên lịch sử dân tộc, lịch sử Phật giáo nước nhà mà chúng ta có nhân duyên để nhìn lại và định hướng trong cuộc hành trình tìm về cội nguồn giải thoát.

lythaito-3.jpg

Cho nên, bất cứ vị Tăng sĩ nào trong thời Trần đều cũng được ao ước trở về Yên Tử, hay những đạo tràng an cư của Trung ương Giáo hội để kiết hạ như là được sống trên thánh địa, "đại bản sơn" của Phật giáo Trúc Lâm, nơi đây được xem là Phật quốc, chẳng khác nào Tây Trúc, Linh Thứu mà Đệ tam Tổ Trúc Lâm Huyền Quang mô tả trong bài vịnh Vân Yên tự phú bằng chữ Nôm. Cũng trong ý nghĩa này, ngày nay, đã là người Phật tử Việt Nam, bất kỳ ai cũng mong rằng có ít nhất một lần trong đời được về Yên Tử chiêm bái và tu học: "Dù ai quyết chí tu hành/Có về Yên Tử mới đành lòng tu".

Thích Phước Đạt

1 Trần Thái Tông, Khóa hư lục, Sa môn Thích Thanh kiểm dịch, THPG TP.HCM, 1997, tr. 54.