Kinh Tam Bảo Nghĩa

lịch sử Phật giáo việt nam, pháp môn tịnh độ, niệm Phật pháp môn, thiền tông việt nam graphic Kinh Tam Bảo không phải là tên của một bộ Kinh mà là bộ biên tập các Kinh thường được trì tụng trong chốn thiền môn như Kinh A Di Đà, Hồng Danh Bửu Sám, Kinh Phổ Môn và Kinh Kim Cang. Các Kinh này đều do HT Trí Tịnh.

Nội dung Kinh A Di Đà nói về cảnh giới Tây Phương tịnh độ, nơi đó có đức Phật A Di Đà làm giáo chủ. Muốn vãng sanh về cõi nước tịnh độ ấy hành giải phải trì niệm danh hiệu của ngài và tha thiết cầu sanh về cõi nước ấy thì sẽ được như nguyện. Hồng Danh Bảo Sám là nghi sám hối trong ấy có 88 danh hiệu Phật, các bài văn sám, phát bồ đề tâm, văn phát nguyện của ngài Phổ Hiền đại sỹ… mỗi hồng danh một lạy mỗi lời nguyện một lễ một lễ tất cả thành 108 tượng trương cho 108 phiền não... Dù chỉ 108 lạy nhưng gọi là Hồng Danh Bảo Sám bởi vì công năng của pháp sám hối này có thể tiêu diệt vô lượng tội lỗi. Kinh Phổ Môn nói về hạnh nguyện cứu khổ của ngài Quán Thế Âm hễ ai gọi đến tên ngài thì ngài đều thị hiện một trong 32 ứng thân để cứu độ, ngài đối với chúng sanh trong cõi Ta-bà có nhân duyên sâu đậm. Kinh Kim Cang một bộ kinh quan trọng trong thiền tông, không những cho thiền tông mà tất cả các tông. Nếu người học Phật mà không thông suốt lý của kinh này thì có thể nói vẫn chư thấu suốt Tâm Phật.

Kinh Tam Bảo Nghĩa

Dịch giả: Hòa thượng Thích Trí Tịnh

Thành Hội Phật Giáo Tp Hồ Chí Minh

Ấn Hành. PL: 2536 – 1992

(Kinh Tam Bảo bổn gốc có cả âm lẫn nghĩa nhưng chúng tôi chỉ lấy phần nghĩa. Cuối Kinh HT có giải thích bài văn “Ba Đời Mười Phương” nhưng trong mục lục không có chúng tôi thêm VI/ Giải Thích Văn “Ba Đời Mười Phương Phật” vào phần mục lục. Trong bản lưu hành nội bộ, mỗi kinh đều có đủ phần nghi thức “V/ Niệm Phật Hồi Hướng Nghi Thức”.

Không tìm thấy Kinh Tam Bảo trong CTTDTK, có lẽ HT Trí Tịnh dịch các Kinh thông dụng rồi hiệp thành một bộ gọi là Kinh Tam Bảo. bttdtkvn)

Mục Lục:

I/ Kinh A Di Đà

II/ Hồng Danh Bửu Sám

III/ Kinh Phổ Môn

IV/ Kinh Kim Cang

V/ Niệm Phật Hồi Hướng Nghi Thức

VI/ Giải Thích Văn “Ba Đời Mười Phương Phật”

I/ Kinh A Di Đà (1)

Hán dịch: Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch. (2)

Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh

NGHI THỨC TỤNG KINH A DI ĐÀ NGHĨA

Tán Lư Hương:

Lò hương vừa nhen nhúm

Pháp giới đã được xông

Các Phật trong hải hội đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Các Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.

Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.

Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha. (3 lần)

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Kệ Khai Kinh

Pháp vi diệu rất sâu vô lượng

Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp

Con nay nghe thấy được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai.

Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát. (3 lần)

PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ

1/ Kỳ Viên Đại Hội (3)

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc đại A La Hán mọi người đều quen biết, như là:

Trưởng lão Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nâu Lâu Đà, những vị đại đệ tử như thế.

Và hàng Đại Bồ tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ tát, Càn Đà Ha Đề Bồ tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát... cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích Đề Hoàn Nhơn, v.v... đại chúng cùng đến dự hội. (4)

2/ Y Báo Chánh Báo (5)

Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

3/ Y Báo Trang Nghiêm

Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc?

Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. (6)

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. (7)

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.

Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch. (8)

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.

Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. (9)

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già, Cọng mạng những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, v.v... Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?

Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá Lợi Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. (10)

Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí dụ như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung.

Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

4/ Chánh Báo Vô Lượng Thù Thắng

Xá Lợi Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà. (11)

Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá Lợi Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực Nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói thôi!

Xá Lợi Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.

Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ. (12)

5/ Nhơn Hạnh Vãng Sanh

Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn.

Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó.

Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. (13)

Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

6/ Sáu Phương Phật Đồng Khuyên Tin

Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: “Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật, Tịnh Quang Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Dưới, có đức Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Mạ Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".

Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bửu Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này". (14)

Xá Lợi Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá Lợi Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Xá Lợi Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá Lợi Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

7/ Thuyết Kinh Rất Khó

Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời này: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, mà Ngài chứng được ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này".

Xá Lợi Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác Ngũ trược thực hành việc khó này: đặng thành bậc Vô thượng Chánh giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! (15)

Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A tu la, v.v... nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.

Phật nói kinh A Di Ðà.

Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh độ Đà La Ni

Nam mô A di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ. Ta bà ha. (7 lần)

A Di Ðà Phật Tán:

Tây phương Giáo Chủ Tịnh độ Năng nhơn,

Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh.

Phát nguyện thệ hoằng thâm.

Thượng phẩm thượng sanh,

Ðồng phó Bửu Liên thành.

Chí Tâm Ðảnh Lễ:

(Mỗi câu đều đọc)

1. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Lượng Quang Như Lai.

2. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Biên Quang Như Lai.

3. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Ngại Quang Như Lai.

4. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Ðối Quang Như Lai.

5. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Diệm Vương Quang Như Lai.

6. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Thanh Tịnh Quang Như Lai.

7. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Hoan Hỉ Quang Như Lai.

8. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Trí Huệ Quang Như Lai.

9. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Nan Tư Quang Như Lai.

10. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Bất Ðoạn Quang Như Lai.

11. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Vô Xưng Quang Như Lai.

12. Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Ðà Hải hội, Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai.

Thích Nghĩa Kinh A Di Đà

(1) Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật A Di Đà Phật.

(2) Triều Tấn (Tàu), Dao Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là Tần nên gọi là Dao Tần.

Bực thông hiểu tam tạng: kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư.

Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.

(3) Ông Cấp Cô Độc Trưởng giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái tử, con vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tinh xá để thỉnh Phật cùng chúng hội về ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy.

Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại A La Hán này là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.

(4) A Dật Đa là tên của đức Di Lặc Bồ tát.

Càn Đà Ha Đề Bồ tát là ngài Bất Hưu Tức Bồ tát.

Thích Đề Hoàn Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.

(5) Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn, v.v... gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước Cực Lạc.

Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú, v.v... trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh văn, v.v...

(6) Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ, v.v... Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.

KHỔ Ở CÕI TA BÀ

1. Tam Khổ:

- Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai này đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét, v.v...

- Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xoay chuyển, như sương đầu cỏ, như móc buổi mai.

- Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không dừng...

2. Bát Khổ:

- Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng đau khổ trăm bề.

- Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, thần hôn, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đầu bạc...

- Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không ổn...

- Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút...

- Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong...

- Ái biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly...

- Oán tắng tội khổ: oan gia đối đầu, cừu thù gặp gỡ.

- Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng không khác.

VUI Ở CỰC LẠC

1. Tam Lạc:

- Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện...

- Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt...

- Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh trí bất động...

2. Bát lạc:

- Sanh lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh...

- Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu...

- Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau...

- Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt...

- Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thực tự nhiên...

- Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời...

- Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng Thiện Nhân, đồng tâm xứng ý...

- Vô ngũ ấm thạnh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời...

Không đâu khổ bằng Ta bà, không đâu vui bằng Cực Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cực Lạc!

(7) Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc, v.v... hoặc có thứ cây thân bằng vàng lá bạc, nhánh lưu ly, v.v...

Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.

(8) Trong đây nói đất (địa) đó là chỉ thuận theo tiếng này mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng... Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi.

Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: 1) trong sạch, 2) nhẹ nhàng, 3) mát mẻ, 4) ngon ngọt, 5) đượm thuần, 6) êm đềm hòa huỡn, 7) uống vào hết đói khát, 8) bổ khỏe thân tâm.

(9) Người trong nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới.

Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng v.v... Đi kinh hành có hai điều lợi ích: 1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và 2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.

(10) Ngũ căn: Tín, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức này thời vững chắc trên đường đạo như cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ).

Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh).

Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả.

Bát Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định.

Ở trong cõi Ta bà này, những loài chim nhiếp thuộc vào Súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.

(11) Đoạn này là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A Di Đà, vì có hai điều vô lượng: 1) Vô lượng quang, 2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là A Di Đà.

(12) A bệ bạt trí (Phạn âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cực Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện nay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy).

Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.

(13) Cõi Cực Lạc rất thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát... phóng quang đến rước, quyết định đặng sanh cõi Cực Lạc.

- Niệm Phật không còn có móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là Nhứt tâm bất loạn.

(14) Người tu Tịnh độ phải có đủ ba điều: Tín (tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc) Trong ba điều này, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.

- Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sông lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.

- Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?

- Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới (1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới).

Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta bà (Phạm âm) dịch là Kham nhẫn ngụ ý rằng trong cõi này có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.

(15) Ngũ trựơc:

1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ.

2) Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo.

3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín.

4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,...) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng.

5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở.

Năm món trên đây tánh cách nhiễu não, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).

PHỤ LỤC VÀI TÍCH VÃNG SANH CÓ CHỨNG NGHIỆM

Những sự tích của các vị tu Tịnh độ được vãng sanh mà chúng ta được đọc đến, hầu hết là trích dịch ở sách Tàu mà những vị được vãng sanh kia là người Tàu. Người trong nước ta tu Tịnh độ, từ xưa đến nay há lại không có người được vãng sanh ư? Nếu có, sao không thấy sách nào ghi đến? Có vãng sanh cùng chép vào sách là 2 chuyện. Từ xưa đến nay Người trong nước ta tu Tịnh độ được vãng sanh rất nhiều, nhưng vì thiếu sót sự ký lục, thiếu sự lưu truyền, nên dầu có nhiều mà ít người được biết, có biết cũng chỉ riêng nơi nhóm người được mục kích, nhưng rồi nó cũng theo thời gian mà phai lần.

Nhưng chính tôi cũng từng nghe biết nhiều người tu Tịnh độ khi lâm chung có chứng nghiệm chắc chắn được vãng sanh nhưng vì không ghi chép, không thường lập lại trong trí, nên nay thấy sự khuyết điểm như vừa nói ở trên, muốn tường thuật lại thời đã quên lãng gần hết, hoặc nhớ người mà quên tên họ, năm tháng v.v... Ghi chép mà không rành rẽ tên họ chỗ nơi, thời làm thế nào mà thủ tín được!

Vài sự tích chép dưới đây may chăng nó có thể làm tiền phong bổ cứu điều khuyết điểm trên, mà từ đây về sau, lần lượt mọi người được đọc những trang tiểu sử vãng sanh có chứng nghiệm của các nhà đạo tâm vì mục đích vị tha tường thuật, để thiệt nghiệm lời Phật đã dạy và nẩy nở tín tâm của mình.

Ngày 10-10 Mậu Tý (1948 D.L)

NÁN LẠI MỘT NGÀY

Bà Nguyễn thị Danh pháp danh Đạt Nhiên, người làng Thanh Hà hạt Chợ lớn, gần 60 tuổi mới phát tâm cầu đạo thọ pháp với Sự Cụ chùa Tôn Thạnh chuyên tâm tu tịnh nghiệp. Đến năm Ất Dậu 1945 D.L (năm bà 68 tuổi), bà nhuốm bịnh. Biết trước giờ vãng sanh. Ngày 7 tháng 4, bà sai người đến chùa Tôn Thạnh thỉnh Sư Cụ Liễu Thoàn rằng: “Ngày mùng 8 tháng 4 này, bà theo Phật, xin thỉnh Sư Cụ đến ngày đó xuống nhà để bà từ tạ”.

Nhưng vì ngày mùng 8 tháng 4 là ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca, Sư Cụ mắc ở lại chùa hành lễ, nên thành ra sáng mùng 9 Sư Cụ mới xuống đến. Thấy Sư Cụ bà mừng rỡ mà bạch rằng: “Từ hôm qua tới nay, tôi trông Thầy lắm. Trước khi về Phật, tôi muốn gặp Thầy để tạ từ. Đáng lẽ tôi đã đi hồi trưa hôm qua song vì chờ Thầy nên tôi phải nán lại tới hôm nay. Bây giờ tội sắp đi, xin nhờ Thầy hộ cho một biến kinh”.

Sư Cụ cùng vài người đệ tử lên trước bàn Phật tụng kinh A Di Đà, vừa xong quyển, thời bà ngồi chắp tay niệm Phật mà quy Tây. Có hai người con trai đều xuất gia, hiện đương coi chùa Linh Phong tại làng Tân Hiệp, tỉnh Mỹ Tho.

Ý NGUYỆN VÃNG SANH

Bà Trần Thị Lai, người ở làng Tân Kim hạt Chợ Lớn, năm 45 tuổi phát tâm tu hành. Có lời nguyện rằng: “Tôi quyết chí tu hành, xin Phật cho tôi được vãng sanh vào ngày vía Đức A Di Đà Phật” (17 tháng 11).

Quả nhiên, đến ngày 17 tháng 11 năm Đinh Hợi (1947 D.L), bà niệm Phật mà từ trần.

Con cháu của bà đều xuất gia, hiện nay đang tu tại chùa Pháp Tánh (làng Tân Kim Chợ Lớn).

BIẾT TRƯỚC NGÀY GIỜ VÃNG SANH

Ông Hồ Văn Định, người làng Long An (Chợ Lớn), năm 42 tuổi phát tâm mộ đạo, chuyên ròng niệm Phật tụng kinh.

Đến năm Mậu Tý (1948 D.L) ngày mùng 3 tháng 9, ông nói trước vợ con rằng: “Đến giờ Thân, thời tôi về Phật”.

Thật giờ Thân ông chắp tay niệm Phật mà vãng sanh.

Ba tích vãng sanh trên đây là của Sư Cụ Liễu Thoàn (Hòa thượng chùa Tôn Thạnh ở Cần Giuộc) tường thuật. Sư Cụ tự nói rằng những người tu Tịnh độ lúc lâm chung có thiệt nghiệm là được vãng sanh. Sư Cụ tường thuật đây, đều là tận mắt Sư Cụ mục kích trong khi Sư Cụ đến hộ niệm. Ngoài ra Sư Cụ còn thuật thêm 7 người nữa, như ông Nguyễn Văn Xá (làng Quy Đức) niệm Phật chờ mây trắng đến mà từ trần. Cô Nguyễn Thị Sao (làng Mỹ Lệ) trước giờ lâm chung thấy ba lằn mống bạc xẹt ngang mình từ Đông sang Tây, vân vân...

Ôi! Sanh không biết từ đâu đến, chết không biết rồi sẽ về đâu, hãi hùng kinh sợ, giật mình lăn lộn, mắt trợn ngược, miệng kéo xếch, ngột hơi cứng lưỡi, chơn rút, tay vinh vân vân... kể sao cho hết cảnh trạng thống khổ trong khi sắp chết của một phần đông trong số người cả đời không biết gì là điều lành, là đạo đức.

Muốn “tử an” há lại dễ được lắm ư! Câu tử khổ từ xưa đức Phật đã từng răn nhắc! muốn khỏi “tử khổ” phải làm thế nào?

Kinh nói: “khi con người sắp chết, thời tất cả cảnh tượng của những điều ác hay lành trọn trong đời của người đó gây tạo đều tuần tự phô diễn lại trong trí của người đó. Nếu cảnh dữ thời sẽ chết một cách đau khổ, sợ sệt. Còn cảnh lành thời đi một cách yên vui vững vàng”. Biết trước ngày giờ mình sẽ từ giã thân ô trược này, khi đi thong dong tự tại, là những điều dành riêng cho những người hành đạo chơn chánh và đã đắc lực, mà dễ được nhứt là người tu về PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc).

Ngày thường đã tu Tịnh độ thời là đã vun trồng chánh nhơn Tịnh độ. Nhơn thành thời kết quả. Trong kinh đức Phật có dạy: “Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà... nơi cõi nước kia hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về”.

Lời của đức Phật, đấng Thiên Nhơn Sư, phán ra quyết định là đúng thật, đó là điều mà từ xưa đến nay, người có chánh tín, không ai là không công nhận PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ (niệm Phật A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc) là pháp môn vừa thù thắng nhứt vừa giản tiện nhứt đó là lời các vị Tổ Sư thường nói.

Thù thắng nhứt, vì người tu Tịnh độ mau chứng bực “bất thối”, mau “thành Phật”. Cho đến ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền là bực Pháp Vương Tử mà còn nguyện sanh thay!

Giản tiện nhứt, vì mọi người, bất luận là trí, ngu, nam, nữ, đều có thể thật hành và đều có thể thành tựu.

Xem như nguyện của Bà Danh v.v... đến già mới phát tâm. Thời gian tu hành không bao lâu, mà đều có phần tự tại an vui khi lâm chung: người thời ngừng sự chết lại, người thời y như chỗ mình nguyện cầu, người biết rõ giờ khắc... Những sự tự tại an vui khi lâm chung của người tu Tịnh độ là thoại ứng được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc vậy.

Người tu Tịnh độ được như thế là do nhờ sức đại nguyện của đức Phật A Di Đà nhiếp thọ.

Trong kinh “Vô Lượng Thọ Phật”. Đức A Di Đà khi tu hạnh Bồ tát có phát 48 điều đại nguyện để nhiếp sanh. Ngài đã thật hành đầy đủ 48 điều đó, và hiện tại cũng như vị lai Ngài vẫn dung 48 điều đại nguyện đó bủa khắp pháp giới để tiếp độ muôn loài.

48 Điều Đại Nguyện Của Đức Phật A Di Đà

1. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, trong cõi nước của Ta còn có Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

2. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta sau khi mạng chung còn phải đọa vào ba ác đạo thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

3. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà tất cả thân thể của hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng thuần vàng ròng cả thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

4. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hình sắc của hàng Trời, Người trong nước Ta có tốt xấu không đồng nhau thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

5. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng biết túc mạng, ít nhất là biết những việc trong trăm nghìn ức vô số kiếp thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

6. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng thiên nhãn, ít nhứt là thấy trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

7. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng thiên nhĩ, ít nhứt là nghe lời thuyết pháp của trăm nghìn ức vô số chư Phật và chẳng thọ trì trọn vẹn được, thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

8. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng tha tâm trí, ít nhứt là rõ biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật, thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

9. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đặng thần túc, ít nhứt là khoảng một niệm qua đến trăm nghìn ức vô số nước Phật thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

10. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà hàng Trời, Người trong nước Ta nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp nơi thân mình thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

11. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta, chẳng trụ trong dòng chánh định mãi đến lúc thành Phật, thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

12. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, ánh sáng của Ta còn có hạn lượng, ít nhứt chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức vô số cõi nước của chư Phật thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

13. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, thọ mạng của Ta còn có hạn lượng, ít nhứt là trăm nghìn ức vô số kiếp thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

14. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mà có người tính đếm biết được số của hàng Thanh văn trong nước Ta, hoặc giả nhẫn đến tất cả chúng sanh trong cõi Tam thiên Ðại thiên đều thành bực Duyên giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết rõ được số Thanh văn ấy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

15. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, thọ mạng của hàng Trời, Người trong nước Ta không có hạn lượng, trừ khi họ có bổn nguyện riêng, dài ngắn tự tại theo ý muốn. Nếu chẳng như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

16. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta nhẫn đến nghe có tên bất thiện thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

17. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của Ta thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

18. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước Ta nhẫn đến trong mười niệm, nếu không được vãng sanh thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác. Chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và chê bai chánh pháp.

19. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước của Ta. Đến lúc người đó mạng chung, nếu Ta chẳng cùng với đại chúng vây quanh hiện ra nơi trước người đó. Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

20. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của Ta, chuyên nhớ nước Ta, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước Ta mà chẳng được toại nguyện thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

21. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta chẳng đều thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

22. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở cõi nước khác sanh về nước Ta rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ thoát tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ trụ nơi đạo chánh chơn Vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu tập công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

23. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta thừa thần lực Phật mà đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

24. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

25. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta không thể diễn nói nhứt thiết trí thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

26. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta chẳng đặng thân Kim Cương bền chắc thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

27. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, trong nước Ta những hàng Trời, Người và tất cả muôn vật đều đẹp đẽ, trong sạch, sáng rỡ hình sắc lạ thường, rất nhiệm, rất mầu, không ai có thể cân lường được, dầu là người có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

28. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Bồ tát trong nước Ta, nhẫn đến những người công đức kém ít mà chẳng thấy biết được đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

29. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát trong nước Ta nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

30. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước Ta mà có hạn lượng thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

31. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, nước Ta thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

32. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước Ta đều dùng vô lượng châu báu, trăm nghìn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng Trời, Người. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

33. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh Ta chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng Trời, Người. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

34. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu Ta mà chẳng được Bồ tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

35. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu Ta vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

36. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu Ta sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

37. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu Ta rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

38. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

39. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, hàng Trời, Người trong nước Ta hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

40. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, Bồ tát nước Ta tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

41. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

42. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát Tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

43. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

44. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

45. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta thảy đều chứng được phổ đẳng Tam muội, an trụ trong Tam muội này đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

46. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở trong nước Ta tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

47. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

48. Giả sử khi Ta đặng thành Phật, chúng Bồ tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu Ta mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì Ta nguyện không chứng lấy quả Chánh giác.

Trong kinh lại nói: Sau khi thuật 48 điều đại nguyện xong đức Phật phán tiếp: “Này A Nan! Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo (tiền thân của đức Phật A Di Đà) vừa phát nguyện và nói tụng xong, liền đó khắp cõi đại địa sáu điệu vang động. Trời rưới hoa báu để rải trên mình Ngài Pháp Tạng. Âm nhạc tự nhiên trên hư không vang ra tiếng khen rằng: quyết định chắc chứng thành quả Vô thượng Chánh giác! Đó rồi Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo tu hoàn toàn đầy đủ các đại nguyện như thế chắc thiệt chẳng dối... Pháp Tạng Bồ tát nay đã thành Phật hiện ở nước Cực Lạc bên phương Tây, cách đây mười muôn ức cõi...”

Mười phương chư Phật ba đời

Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh

Sen vàng chín phẩm sẵn dành

Oai linh đức cả đã thành vô biên

Nay con dưng tấm lòng thiềng.

Nam Mô Lạc Bang Giáo Chủ Đại Từ Bi Phụ A Di Đà Phật.


II/ Hồng Danh Bửu Sám

Bất Động Pháp Sư Thuật

Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh

NGHI THỨC SÁM HỐI HỒNG DANH BỬU SÁM

TÁN DƯƠNG CHI

Dương chi tịnh thủy,

Biến sái tam thiên,

Tánh không bát đức lợi nhơn thiên,

Pháp giới quảng tăng diên...

Diệt tội tiêu khiên,

Hỏa diệm hóa Hồng liên.

Nam mô Thanh Lương Ðịa Bồ tát. (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

(Hoặc bớt chú Ðại bi cũng được)

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.

Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.

Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha. (3 lần)

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

KHAI KINH KỆ

Pháp vi diệu rất sâu vô lượng

Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp

Con nay nghe thấy được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai.

Nam mô Hồng Danh Hội Thượng Bồ tát. (3 lần)

HỒNG DANH BỬU SÁM [1]

1. Tán Thán Công Đức Của Chư Phật [2]

Ðại từ đại bi vớt chúng sanh

Ðại hỉ đại xả cứu hàm thức

Tướng tốt sáng rỡ dùng nghiêm thân

Chúng con chí tâm quy mạng lễ. O (1)

2. Quy Y Tam bảo [3]

Nam mô Quy y Kim Cang Thượng sư. O (2)

Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng. O (3)

3. Phát Tâm Tối Thượng Thừa [4]

Con nay phát tâm, chẳng vì tự cầu phước báo Nhơn Thiên, cùng quả Thanh văn, Duyên giác, nhẫn đến các quả vị Bồ tát trong Quyền thừa.

Con chỉ y theo tối thượng thừa, phát tâm Bồ đề, nguyện cùng chúng sanh trong pháp giới chung cùng một lúc đồng chứng đặng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. O (4)

4. Quy Y Vô Tận Tam bảo [5]

Nam mô Quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả các đức Phật. O (5)

Nam mô Quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả Tôn Pháp. O (6)

Nam mô Quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả Hiền Thánh Tăng. O (7)

5. Xưng Dương Mười Hiệu Của Chư Phật

Nam mô Như Lai, Ưng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. O (8)

6. Lễ 89 Hiệu Phật [7]

Nam mô Phổ Quang Phật. O (9)

Nam mô Phổ Minh Phật. O (10)

Nam mô Phổ Tịnh Phật. O (11)

Nam mô Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Phật. O (12)

Nam mô Chiên Ðàn Quang Phật. O (13)

Nam mô Ma Ni Tràng Phật. O (14)

Nam mô Hoan Hỉ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật. O (15)

Nam mô Nhứt Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Ðại Tinh Tấn Phật. O (16)

Nam mô Ma Ni Tràng Ðăng Quang Phật. O (17)

Nam mô Huệ Cự Chiếu Phật. O (18)

Nam mô Hải Ðức Quang Minh Phật. O (19)

Nam mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật. O (20)

Nam mô Ðại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật. O (21)

Nam mô Ðại Bi Quang Phật. O (22)

Nam mô Từ Lực Vương Phật. O (23)

Nam mô Từ Tạng Phật. O (24)

Nam mô Chiên Ðàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật. O (25)

Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật. O (26)

Nam mô Thiện Ý Phật. O (27)

Nam mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật. O (28)

Nam mô Kim Hoa Quang Phật. O (29)

Nam mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật. O (30)

Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật. O (31)

Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật. O (32)

Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật. O (33)

Nam mô Bất Ðộng Trí Quang Phật. O (34)

Nam mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật. O (35)

Nam mô Tài Quang Minh Phật. O (36)

Nam mô Trí Huệ Thắng Phật. O (37)

Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật. O (38)

Nam mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật. O (39)

Nam mô Thế Tịnh Quang Phật. O (40)

Nam mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật. O (41)

Nam mô Nhựt Nguyệt Quang Phật. O (42)

Nam mô Nhựt Nguyệt Châu Quang Phật. O (43)

Nam mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật. O (44)

Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật. O (45)

Nam mô Diệu Âm Thắng Phật. O (46)

Nam mô Thường Quang Tràng Phật. O (47)

Nam mô Quang Thế Ðăng Phật. O (48)

Nam mô Huệ Oai Ðăng Vương Phật. O (49)

Nam mô Pháp Thắng Vương Phật. O (50)

Nam mô Tu Di Quang Phật. O (51)

Nam mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật. O (52)

Nam mô Ưu Ðàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật. O (53)

Nam mô Ðại Huệ Lực Vương Phật. O (54)

Nam mô A Súc Tỳ Hoan Hỉ Quang Phật. O (55)

Nam mô Vô Lượng Âm Thinh Vương Phật. O (56)

Nam mô Tài Quang Phật. O (57)

Nam mô Kim Hải Quang Phật. O (58)

Nam mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật. O (59)

Nam mô Ðại Thông Quang Phật. O (60)

Nam mô Nhứt Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật. O (61)

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật. O (62)

Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật. O (63)

Nam mô Bảo Quang Phật. O (64)

Nam mô Long Tôn Vương Phật. O (65)

Nam mô Tinh Tấn Quân Phật. O (66)

Nam mô Tinh Tấn Hỷ Phật. O (67)

Nam mô Bảo Hỏa Phật. O (68)

Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật. O (69)

Nam mô Hiện Vô Ngu Phật. O (70)

Nam mô Bảo Nguyệt Phật. O (71)

Nam mô Vô Cấu Phật. O (72)

Nam mô Ly Cấu Phật. O (73)

Nam mô Dõng Thí Phật. O (74)

Nam mô Thanh Tịnh Phật. O (75)

Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật. O (76)

Nam mô Ta Lưu Na Phật. O (77)

Nam mô Thủy Thiên Phật. O (78)

Nam mô Kiên Ðức Phật. O (79)

Nam mô Chiên Ðàn Công Ðức Phật. O (80)

Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật. O (81)

Nam mô Quang Ðức Phật. O (82)

Nam mô Vô Ưu Ðức Phật. O (83)

Nam mô Na La Diên Phật. O (84)

Nam mô Công Ðức Hoa Phật. O (85)

Nam mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật. O (86)

Nam mô Tài Công Ðức Phật. O (87)

Nam mô Ðức Niệm Phật. O (88)

Nam mô Thiện Danh Xưng Công Ðức Phật. O (89)

Nam mô Hồng Diệm Ðế Tràng Vương Phật. O (90)

Nam mô Thiện Du Bộ Công Ðức Phật. O (91)

Nam mô Ðấu Chiến Thắng Phật. O (92)

Nam mô Thiện Du Bộ Phật. O (93)

Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Ðức Phật. O (94)

Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật. O (95)

Nam mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật. O (96)

Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Ðà Phật. O (97)

7. Sám Hối Tội Lỗi [8]

Các đức Phật Thế Tôn khắp trong tất cả thế giới như thế thường trụ tại trong đời, xin các đức Thế Tôn nên từ niệm con.

Hoặc đời này của con, hoặc đời trước của con, con từ vô thỉ sanh tử nhẫn đến nay gây phạm các điều tội lỗi, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm mình vui mừng theo.

Đồ vật của tháp, của hiện tiền Tăng, hay của tứ phương Tăng, hoặc tự mình lấy, hoặc bảo người lấy, hoặc thấy người lấy mình vui mừng theo.

Năm tội Vô gián, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm mình vui mừng theo.

Mười điều bất thiện, hoặc tự mình phạm, hoặc bảo người phạm, hoặc thấy người phạm mình vui mừng theo.

Bao nhiêu tội chướng của con gây tạo ra, hoặc có che giấu hoặc không che giấu, đáng đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, cùng các ác thú khác, đọa vào chốn biên địa, hạng hạ tiện, kẻ ác kiến.

Những tội chướng đáng bị đọa vào các nơi khổ báo như thế, nay con đều sám hối.

8. Hồi Hướng Căn Lành [9]

Nay các đức Phật Thế Tôn nên chứng biết cho con. Con lại đối trước các đức Phật Thế Tôn mà bạch lời này:

Hoặc đời này của con, hoặc đời khác của con đã từng làm việc bố thí, hay giữ gìn giới pháp trong sạch, nhẫn đến thí cho loài chim muông một vắt cơm.

Hoặc đã từng tu hạnh thanh tịnh có bao nhiêu căn lành, thành tựu chúng sanh có bao nhiêu căn lành, tu hạnh đạo Bồ đề có bao nhiêu căn lành, cho đến đã từng phát tâm Vô thượng Phật trí có bao nhiêu căn lành; Hiệp nhóm so đếm tính lường tất cả căn lành thảy đều hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Các đức Phật trong thuở quá khứ, vị lai và hiện tại cách thức hồi hướng như thế nào, con cũng hồi hướng như thế đó. O (98)

9. Tổng Kết Hai Đoạn Trước

Những tội lỗi con đều sám hối.

Các phước lành con vội tùy hân (vui ưa theo)

Với cùng thỉnh Phật công huân,

Trí mầu Vô thượng nguyện thuần nên ngay.

Các đức Phật khứ lai hiện tại

Trong chúng sanh thắng Đại Thánh Vương

Biển khơi công đức không lường

Con nay quy mạng nguyện thường lễ tin. O (99)

10. Lễ kính chư Phật [10]

Trong bao nhiêu mười phương cõi nước

Cả ba đời các đức Pháp Vương.

Con dùng ba nghiệp tịnh xương (sạch tốt)

Khắp lễ tất cả mười phương vẹn tuyền.

Sức thần oai Phổ Hiền hạnh nguyện

Trước Như Lai khắp hiện tự thân

Mỗi thân lại hiện trần thân

Thân thân lễ khắp sát trần Thế Tôn. O (100)

11. Xưng Tán Như Lai

Trong một trần có trần số Phật

Đều ở trong hội bực Thượng Nhân

Khắp cùng pháp giới mảy trần

Sâu tin chư Phật đều thường đầy trong.

Biển âm thanh đều dùng trọn vận

Diệu ngôn từ vô tận khắp vang

Vị lai cả kiếp thảy toàn (tất cả)

Ngợi khen Phật đức biển nghìn rất sâu! O (101)

12. Quảng Tu Cúng Dường [11]

Tràng hoa đẹp rất xinh thơm ngát,

Cùng hương xoa, kỹ nhạc, lọng tàn,

Như kia đồ tốt trang hoàng,

Cúng dường chư Phật con toàn kính dưng.

Y tối thắng cùng hương tối thắng

Với đuốc đèn, hương phấn, hương xông

Đều nhiều như Diệu Cao Phong, (núi Tu Di)

Cúng dường chư Phật con đồng dưng lên

Tâm thắng giải mông mênh con dụng

Phật ba đời thảy cũng tin kiên, (tin chắc)

Đều nương hạnh nguyện Phổ Hiền

Cúng dường chư Phật khắp miền mười phương. O (102)

13. Sám Hối Nghiệp Chướng

Các tội ác xưa con lầm lỡ

Do tham sân muôn thuở xui nên

Từ thân ngữ ý sanh lên

Nay con cả thảy đều bền sám luôn. O (103)

14. Tùy Hỷ Công Đức [12]

Các chúng sanh khắp mười phương cõi

Bực nhị thừa: Hữu học cùng vô

Như Lai Bồ tát vẹn tuyền

Có bao công đức con nguyền vui ưa. O (104)

15. Thỉnh Chuyển Pháp Luân [13]

Thế gian đăng trong mười phương nước

Lúc tối sơ thành được Bồ đề

Nay con đều thỉnh một bề

Giảng truyền pháp diệu vỗ về quần sanh. O (104)

16. Thỉnh Phật Trụ Thế [14]

Các đức Phật muốn toan nhập diệt

Con chí thành mải miết ân cần

Cúi mong ở mãi kiếp trần

Làm cho lợi lạc khắp cùng sinh linh. O (105)

17. Phổ Giai Hồi Hướng [15]

Bao nhiêu phước cúng dường, lễ, tán

Thỉnh ở đời cùng giảng pháp luân

Vui theo sám hối thiện căn

Hồi sanh, hướng Phật, cao thăng Bồ đề. O (106)

18. Quy Chơn Thừa Và Tổng Kết

Con nguyện đem đức dày thắng lợi

Hồi hướng chơn pháp giới tối cao

Tánh tướng Tam bảo thế nào

Hải Ấn Tam muội dung vào Tục, Chơn.

Biển công đức khôn lường như thế

Nay con đều đem để hồi về

Dưới cho muôn loại nương kề

Cùng con đồng chứng Bồ đề đạo chơn. (107)

Bao nhiêu chúng nơi thân, khẩu, ý

Lòng mê lầm móng nghĩ sân, si,

Chê bai chánh pháp Mâu Ni (Phật)

Thâm tâm phạm quấy kể gì phải chăng.

Như trên nghiệp chướng tội thâm,

Nguyện tiêu diệt hết ác tâm chẳng còn.

Trí huệ khắp đầy tròn pháp giới,

Độ chúng sanh chẳng nại gian lao,

Hư không thế giới dẫu hao,

Chúng sanh phiền não với nào nghiệp chung, (cùng tận)

Nay con hồi hướng rộng lung,

Cũng như bốn pháp vô cùng vô biên! O (108)

Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát Ma Ha Tát (3 lần)

Thích Nghĩa Hồng Danh Bửu Sám

[1]. Hồng danh: Danh hiệu rộng lớn. Danh hiệu của Phật là danh hiệu tôn quý nhứt trong đời, nên gọi là “Hồng danh”. Toàn thể những đoạn văn dưới đây: trước xướng lễ danh hiệu của chư Phật để rồi cầu ai sám hối, là pháp sám hối rất báu quý, vì có thể đem nhiều sự lợi ích lớn lao cho hàng nhơn, nên gọi là “Hồng Danh Bửu Sám”. Văn sám hối này là của ngài Bất Động Pháp Sư đời tống soạn ra. Toàn văn chia làm 108 lạy để biểu nghĩa đối trị 108 món phiền não. Nên chính tên là “Lễ Phật đại sám hối văn”.

[2]. Đại từ đại bi, đại hỷ, đại xả là bốn đức vô lượng tâm của Phật. Ban vui cho tất cả muôn loài là đại từ. Cứu khổ cho tất cả muôn loài là Đại bi. Muôn loài được lợi ích, đức Phật vui mừng đó là Đại hỉ. Dầu luôn luôn ban vui, cứu khổ, làm lợi ích cho muôn loài, đức Phật vẫn không thấy mình có làm, mà cũng không thấy có mình v.v... đó là đại xả.

Hàm thức là những loài hàm súc thức tâm tri giác, một tên riêng của hữu tình chúng sanh.

Quy mạng là đem thân mạng, món quý trọng nhứt của mình, nương về nơi đức Phật, giáo phó cho đức Phật, đó là biểu lòng kính tưởng chí thiết không tiếc gì mạng sống.

[3]. Quy y là về nương. Quy y và qui mạng đồng là Hán dịch ở danh từ Phạm âm “Nam mô”.

Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu quý rất lợi ích ở trong đời, nên gọi là Tam bảo.

Kim Cang Thượng Sư là đấng giáo chủ của đức Tỳ Lô Giá Na, biểu hiệu của pháp tánh nhứt thể Tam bảo.

[4]. Tối thượng thừa là thừa (đưa đến chỉ về các pháp môn) rất trên hơn cả, cũng gọi là Phật thừa hay viên thừa, nhứt thừa.

[5]. Mười phương hư không rộng lớn vô biên, Tam bảo ở trong cũng nhiều vô tận, nên nói Vô Tận Tam bảo.

[6]. Các đức Phật đều có đủ 10 đức hiệu này, đủ mười đức hiệu này mới phải là Phật.

Như Lai tự thể pháp thân chẳng động chẳng dời là Như. Trí quang chiếu khắp, bi tâm độ sanh là Lai.

Ứng Cúng: Đức Phật đã dứt hẳn tất cả mê lầm tội quấy, xa khỏi tất cả khổ lụy, viên thành tất cả công đức, đầy đủ tất cả phước huệ, là phước điền của tất cả Thánh phàm, kham ứng thọ sự cúng dường của tất cả Thánh phàm, do đó tất cả Thánh phàm trọn nên thiện căn công đức.

Chánh Biến Tri: Đức Phật có trí lớn rõ thấu tất cả một cách hoàn toàn đúng đắn.

Minh Hạnh Túc: Trí minh và vạn hạnh đều đầy đủ.

Thiện Thệ: Hay khéo ra khỏi thế gian chứng thành quả Phật, hằng đến trong thế gian để độ sanh, hẳn không bị thế gian làm ô nhiễm.

Thế Gian Giải: Thế gian đây là gồm cả thế gian và xuất thế gian, tất cả pháp trong đó đức Phật đều hiểu rõ thấu suốt.

Vô thượng Sĩ: Đấng cao thượng không còn có ai trên.

Điều Ngự Trượng Phu: Đấng đầy đủ đức tướng tài năng hay điều hòa những chúng sanh nhu thuận và ngự phục những chúng sanh cang cường.

Thiên Nhơn Sư: Đấng Đạo Sư của tất cả Trời, người.

Phật: Nói tắt của danh từ Phật Đà (Phạm âm), Hán dịch là Giác giả, nghĩa là đấng giác ngộ hoàn toàn.

Đức Phật đủ cả mười đức hiệu ở trên, là đấng tôn quý cao thượng nhất trong thế gian và xuất thế gian gọi là Thế Tôn.

[7]. Từ Phật Phổ Quang đến Nhứt Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật (53 hiệu Phật) rút ở trong kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ tát. Từ Thích Ca Mâu Ni Phật đến Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật (35 hiệu Phật) rút trong kinh Bửu Tích.

Trong kinh đức Phật dạy rằng: “Người nào chí tâm xưng niệm vào kính lễ đức hiệu của 53 đức Phật và của 35 đức Phật, thời bao nhiêu tội nghiệp ác chướng đều tiêu diệt, được công đức rất lớn. Chính đức Phật lúc còn tu hạnh Bồ tát cũng nhờ đó mà đặng mau thành Phật”.

Rốt sau lễ đức A Di Đà Phật là ngụ ý đem cả công đức hồi hướng nguyện sanh về cõi Cực Lạc.

[8] Sám là tiếng nói tắt của danh từ sám ma (Phạm âm), Hán dịch là hối quá: sám hối là gồm cả Phạm âm và Hán dịch mà gọi tắt vậy... Ăn năn lỗi trước, chừa bỏ lỗi sau là ý nghĩa của hai chữ sám hối.

- Năm tội vô gián: 1) Giết cha, 2) Giết mẹ, 3) Phá hòa hợp Tăng, 4) Ác tâm làm thân của Phật ra máu, 5) Giết các bậc Thánh.

Người nào phạm 1 trong 5 tội trên đây phải bị đọa vào vô gián Địa ngục (nơi Địa ngục mà các sự khổ sở không hề hở ngớt), nên gọi là tội vô gián.

- Mười đạo bất thiện:

Nơi thân nghiệp có ba: 1) Sát sanh, 2) Trộm cướp, 3) Tà dâm.

Nơi khẩu nghiệp có bốn: 1) Nói dối, 2) Nói chia rẽ, 3) Nói thô ác, 4) Nói thêu dệt.

Nơi ý nghiệp có ba: 1) Tham lam bỏn xẻn, 2) Giận hờn ganh ghét, 3) Mê lầm tà kiến.

Có che giấu là ẩn khuất giấu giếm không che dấu là phô bày tự thú.

Đức Phật dạy: Tất cả mọi người chẳng phải mới có một đời sống hiện tại, mà trước đã trải qua vô lượng đời sống, hoặc là làm trời, làm súc, làm quỉ, làm người v.v..., thùy theo hạnh nghiệp gây tạo ở những đời chiêu cảm ra. Và những hạnh nghiệp gây tạo ra trong đời sống làm người hiện tại đây hiệp với quá khứ, sẽ chiêu cảm thành đời sống tương lai, khi mãn đời sống này. Nếu hạnh nghiệp trong đời hiện tại và quá khứ có tánh cách lành thời nó sẽ cảm với đời sống tương lai một trình độ cao tốt vui sướng (Người, Trời, Thánh v.v...); nhược bằng tánh cách dữ, đời sống tương lai sẽ xấu xa thấp thỏi khổ sở (quỉ súc v.v...) vì thế nên trong đây sám hối cả tội lỗi trong đời này cho đến vô lượng đời về trước vô cùng nên gọi là Vô thỉ.

[9]. Những điều làm, nói và suy nghĩ hay phải, có thật lợi ích cho mình cho người v.v... là những căn lành. Với một tâm lượng hẹp nhỏ những căn lành kia sẽ kết thành những quả báo hẹp nhỏ trên đường lành (tâm thế gian sẽ kết thành quả báo nhơn, thiên, tiên, thần. Tâm xuất thế tiểu thừa sẽ kết thành bực Tiểu Thánh: Thanh văn, Duyên giác). Nay đem căn lành hồi hướng về Phật đạo (Vô thượng Chánh giác), đó là dùng tâm lượng rộng lớn xuất thế đại thừa, với tâm lượng này những căn lành kia sẽ kết thành bực Đại Thánh Phật quả. Đem căn lành công đức xoay về đó, hướng đến đó, nguyện cầu cho được thành Phật, như thế gọi là hồi hướng A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

[10]. Sư tử là chúa tể trong loài muông thú, mỗi khi gầm hét, tất cả muôn thú nghe đều thất vía kinh hồn. Đức Phật ra đời dùng viên âm thuyết pháp, tất cả Thiên ma, ngoại đạo v.v... đều khiếp phục quy đầu, như thế đức Phật đáng là chúa tể tự tại vô úy trong loài người như sư tử là chúa tể tự tại vô úy trong loài thú nên gọi là đấng Nhơn Sư Tử.

Lòng tưởng Phật, miệng xưng danh hiệu Phật, năm vóc gieo xuống đất, đó là thanh tịnh lễ Phật.

Hạnh nguyện Phổ Hiền lượng rộng lớn đồng pháp giới. Nương hạnh nguyện Phổ Hiền thời tâm và thân của hành giả cũng đồng pháp giới. Pháp giới rộng vô biên các đức Phật trong pháp giới nhiều vô lượng, tâm của hành giả cũng rộng vô biên, thân của hành giả cũng biến hiện nhiều vô lượng như sát trần (bụi trần trong cõi nước) để lễ khắp tất cả Phật.

Thượng Nhơn là các vị Bồ tát (Kinh Duy Ma Cật).

[11]. Núi Tu Di (Phạm âm) Hán dịch là Diệu cao, núi này thuần bằng bốn chất báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, rất xinh đẹp nên gọi là Diệu, cao hơn tất cả núi khác nên gọi là Cao. Lưng chừng núi là chỗ của trời Tứ Thiên Vương, trên đỉnh là nước của trời Đao Lợi.

Tâm Thắng Giải là tâm nhận hiểu chắc thật quyết định.

[12]. Nhị thừa là Thanh văn thừa và Duyên giác thừa. Trong hai thừa này bực A La Hán và Bích Chi Phật là bực Vô học (đối trong hai thừa, chỗ tu chứng đã xong không còn phải học nữa) dưới hai bực trên là bực hữu học (chỗ tu chứng chưa xong còn phải học thêm).

[13]. Chuyển pháp là thuyết pháp độ đời.

Đức Phật ra đời nói pháp phá tan lòng mê tối lầm lạc của mọi người trong đời, như ngọn đèn sáng phá sự tối tăm, nên gọi là đấng Thế Gian Đăng.

[14]. Toan thị tịch là sắp muốn thể hiện Niết bàn (nhập diệt).

Kiếp trần là kiếp số nhiều như bụi trần, ý muốn thỉnh Phật ở mãi trên đời đừng nhập diệt, để mọi người được gội nhờ ơn giáo hóa.

[15]. Vô thượng chơn pháp giới là tự tánh bổn tâm. Tâm này thể tánh chơn thật tuyệt đối trùm khắp pháp giới, là thể của pháp giới, mà mọi người đều tự sẵn đủ. Hồi hướng về đó là ý rằng từ trên tất cả công đức lễ Phật, sám hối v.v... là việc làm thuộc về hình thức bề ngoài, nay đem tất cả quy về tự bổn tâm chơn tánh vậy.

Nhị đế là chơn đế (tánh thể chơn thật) và tục đế (tướng dụng giả huyễn) Tánh Phật, Pháp, Tăng thuộc chơn đế. Tướng Phật, Pháp, Tăng thuộc tục đế. Trong Tam muội (chánh định) dung thông cả tánh (chơn) và tướng (tục) như trong biển ảnh hiện sum la vạn tượng (hải ấn).

Từ lễ kính chư Phật đến Phổ giai hồi hướng (48 câu kệ) trích trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện.


III/ Kinh Phổ Môn

Hán dịch: Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch.

Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh

NGHI THỨC TRÌ TỤNG PHỔ MÔN

HƯƠNG TÁN

Chiên đàn hải ngạn

Lư nhiệt danh hương

Da du tử mẫu lưỡng vô ương

Hỏa nội đắc thanh lương

Chí tâm kim tương

Nhất chú biến thập phương. (1)

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.

Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.

Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha. (3 lần)

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Kệ Khai Kinh

Pháp vi diệu rất sâu vô lượng

Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp

Con nay nghe thấy được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như Lai.

Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Nam Mô Thánh Quan Tự Tại Bồ tát. (3 lần)

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm “Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn” (2)

1. Bạch Hỏi Sở Nhơn

Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật (3) mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?"

2. Thoát Tám Điều Nạn

Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ tát: "Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các sự khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ tát này vậy.

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ tát này liền được chỗ cạn.

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm các thứ châu báu như: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu nên vào trong biển lớn.

Giả sử gió bão thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tấp nơi nước quỉ La sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thời các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thời dao gậy của người kia cầm liền gãy từng khúc, người ấy được thoát khỏi.

Nếu quỉ Dạ xoa cùng La sát đầy trong cõi Tam thiên đại thiên (4) muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thời các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.

Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi Tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, đi ngang qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, vị Bồ tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sinh, các ông nếu xưng danh hiệu Ngài thời sẽ được thoát khỏi oán tặc này".

Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát!", vì xưng danh hiệu Bồ tát nên liền được thoát khỏi.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm đại Bồ tát sức oai thần to lớn như thế.

3. Trừ Ba Độc

Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền được lìa lòng dâm ý dục.

Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền được lìa lòng giận.

Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền được lìa ngu si.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ tát có những sức uy thần rộng lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sinh thường phải một lòng tưởng nhớ đến Ngài.

4. Toại Hai Điều Cầu

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát, liền sinh con trai phước đức trí tuệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sinh con gái có tướng xinh đẹp, vì trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ tát có sức oai thần như thế.

5. So Sánh Công Đức Lễ Niệm

Nếu có chúng sinh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa (5) Bồ tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống y phục, giường nằm thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử, người thiện nữ nhân đó có nhiều chăng?"

Vô Tận Ý thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều".

Phật dạy: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.

Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế."

6. Mười Chín Loại Thuyết Pháp

Ngài Vô Tận Ý Bồ tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn, Quán Thế Âm Bồ tát dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Vì chúng sanh nói pháp như thế nào? Sức phương tiện của ngài như thế nào?"

Phật bảo Vô Tận Ý Bồ tát: "Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát thời Quán Thế Âm Bồ tát liền hiện thân Phật vì đó mà nói pháp.

Người đáng dùng thân Duyên giác đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Duyên giác mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thanh văn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp. (7)

Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Ðế Thích đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Ðế Thích mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tự tại thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tự tại thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Ðại Tự tại thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Ðại Tự tại thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thiên đại tướng quân đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thiên đại tướng quân mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ Sa môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ Sa môn mà vì đó nói pháp. (8)

Người đáng dùng thân Tiểu vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tiểu vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng giả đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Trưởng giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư sĩ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Cư sĩ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tể quan đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tể quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà la môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Bà la môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà la môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhân cùng phi nhân đặng độ thoát, Bồ tát liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thần Chấp Kim Cang đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thần Chấp Kim Cang mà vì đó nói pháp. (9)

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh như thế, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát.

Quán Thế Âm Ðại Bồ tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta bà này đều gọi Ngài là vị "Thí Vô Úy". (10)

7. Cúng Dường

Vô Tận Ý Bồ tát bạch Phật: "Thế Tôn! Con nay xin cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát". Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem cúng dường cho Ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi ngọc trân bảo pháp thí này."

Khi ấy Quán Thế Âm Bồ tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".

Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ tát này và hàng tứ chúng (11) cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhân và phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó".

Tức thời Quán Thế Âm Bồ tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, Nhân, Phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng vào tháp của Phật Ða Bảo. (12)

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ tát có sức oai thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta bà.

8. Trùng Tụng (13)

Lúc đó, Ngài Vô Tận Ý Bồ tát nói kệ hỏi Phật rằng:

- Thế Tôn đủ tướng tốt!

Con nay lại hỏi kia

Phật tử nhân duyên gì (14)

Tên là Quán Thế Âm?

- Ðấng đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp Vô Tận Ý:

Ông nghe hạnh Quán Âm

Khéo ứng các nơi chỗ.

- Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn (15)

Hầu nhiều nghìn ức Phật

Phát nguyện thanh tịnh lớn.

- Ta vì ông lược nói

Nghe tên cùng thấy thân

Tâm niệm chẳng luống qua

Hay diệt khổ các cõi. (16)

- Giả sử sinh lòng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Do sức niệm Quán Âm

Hầm lửa biến thành ao.

- Hoặc trôi dạt biển lớn

Các nạn quỉ, cá, rồng

Do sức niệm Quán Âm

Sóng mòi chẳng chìm được.

- Hoặc ở chót Tu di (17)

Bị người xô rớt xuống

Do sức niệm Quán Âm

Như mặt nhật treo không.

- Hoặc bị người dữ rượt

Rớt xuống núi Kim Cang

Do sức niệm Quán Âm

Chẳng tổn đến mảy lông.

- Hoặc gặp oán tặc vây

Ðều cầm dao làm hại

Do sức niệm Quán Âm

Ðều liền sinh lòng lành.

- Hoặc bị khổ nạn vua

Khi hành hình sắp chết

Do sức niệm Quán Âm

Dao liền gãy từng đoạn.

- Hoặc tù cấm xiềng xích

Tay chân bị gông cùm

Do sức niệm Quán Âm

Tháo rã được giải thoát.

- Nguyền rủa các thuốc độc

Muốn hại đến thân đó

Do sức niệm Quán Âm

Trở hại nơi bổn nhân (18).

- Hoặc gặp La sát dữ

Rồng độc các loài quỉ

Do sức niệm Quán Âm

Liền đều không dám hại.

- Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quán Âm

Vội vàng bỏ chạy thẳng.

- Rắn độc cùng bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quán Âm

Nghe tiếng tự bỏ đi.

- Mây sấm nổ sét đánh

Tuôn giá xối mưa lớn

Do sức niệm Quán Âm

Liền được tiêu tan cả.

- Chúng sinh bị khổ ách

Vô lượng khổ bức thân

Quán Âm sức trí diệu

Hay cứu khổ thế gian.

- Ðầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Các cõi nước mười phương

Không cõi nào chẳng hiện.

- Các loài trong đường dữ:

Ðịa ngục, Quỉ, Súc sanh

Sinh, già, bịnh, chết khổ

Lần đều khiến dứt hết.

- Chân quán, thanh tịnh quán

Trí tuệ quán rộng lớn

Bi quán và từ quán (19)

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

- Sáng thanh tịnh không nhơ

Tuệ nhật phá các tối (20)

Hay phục tai gió lửa

Khắp soi sáng thế gian.

- Lòng bi răn như sấm

Ý Tứ diệu dường mây

Xối mưa pháp cam lộ

Dứt trừ lửa phiền não. (21)

- Cãi kiện qua chỗ quan

Trong quân trận sợ sệt

Do sức niệm Quán Âm

Cừu oán đều lui tan.

- Diệu Âm, Quán Thế Âm

Phạm âm, Hải Triều Âm (22)

Tiếng hơn thế gian kia

Cho nên thường phải niệm.

- Niệm niệm chớ sanh nghi

Quán Âm bậc tịnh thánh

Nơi khổ não nạn chết

Hay vì làm nương cậy. (23)

- Ðủ tất cả công đức

Mắt lành trông chúng sanh

Biển phước lớn không lường

Cho nên phải đảnh lễ.

9. Tổng Kết Nghe Kinh Đặng Công Đức Lớn

Bấy giờ, Ngài Trì Ðịa Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ tát đạo nghiệp tự tại, Phổ môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức của người đó chẳng ít".

Lúc Phật nói phẩm Phổ môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA PHẨM PHỔ MÔN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CHƠN NGÔN VIẾT:

Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (7 lần)

LỤC TỰ ÐẠI MINH CHƠN NGÔN:

Án, ma ni bát di hồng. (108 lần)

Phổ Môn Tán:

Phổ môn thị hiện

Cứu khổ tầm thinh

Từ bi thuyết pháp độ mê tân

Phó cảm ứng tùy hình

Tứ hải thanh ninh

Bát nạn vĩnh vô xâm. (25)

Thập Nhị Nguyện: (Mười Hai Điều Nguyện)

1. Nam mô hiệu Viên thông danh Tự tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. (26) (1 lạy)

2. Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai, thường cư Nam hải nguyện. (1 lạy)

3. Nam mô trụ Ta bà, U minh giới, Quán Âm Như Lai, tầm thinh cứu khổ nguyện. (1 lạy)

4. Nam mô hàng tà ma trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện. (1 lạy)

5. Nam mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai, cam lộ sái tâm nguyện. (1 lạy)

6. Nam mô đại Từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy)

7. Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai, thệ diệt tam đồ nguyện. (27) (1 lạy)

8. Nam mô vọng nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện. (1 lạy)

9. Nam mô tạo pháp, thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện. (1 lạy)

10. Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (1 lạy)

11. Nam mô Vô lượng thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Ðà thọ ký nguyện. (1 lạy)

12. Nam mô đoan nghiêm thân, vô tỉ tái, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy)

Cử Tán

Quan Âm Đại sĩ

Phổ hiệu viên thông

Thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm

Khổ hải phiếm từ phong

Phổ tế tâm dung

Sát sát hiện vô cùng.

Nam mô Thánh Quan Tự Tại Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Thích Nghĩa Kinh Phổ Môn

(1) Trong kinh Pháp Hoa phẩm Dược Vương Bồ tát Bổn sự có câu: “Lại rưới hương hải thử ngạn chiên đàn, sáu thù hương này giá trị bằng cõi Ta bà...” Sáu thù là hai chỉ rưỡi. Hương hải ngạn chiên đàn là một thứ hương rất quý.

Trong Trí Độ luận nói: sau khi đức Thái tử Sĩ Đạt Đa bỏ ngôi đi xuất gia vào núi Tuyết tu hànhh, nhiều người nghi bà Da Du Đà La, vợ cũ của Thái tử, là có chửa hoang. Ở trước mặt mọi người bà lập thệ rằng: “Nếu ta không trinh chánh, đứa con trong bụng ta đây nếu không phải chính thật là con của Thái tử Sĩ Đạt Đa, nguyện ta cùng con đều bị lửa cháy tiêu”. Nguyện xong, bà liền nhảy vào hầm lửa. Lúc đó hầm lửa đang cháy hừng hực, bỗng nhiên biến thành ao nước mát mẻ đầy hoa sen tươi tốt, bà an lành ngồi trên hoa sen. Do đó mà mọi người đồng công nhận bà là bực trinh chánh. Nay người tu hành dùng chí thành đem nén tâm hương cúng dường thập phương Tam Bảo, như lòng chí thành của bà Da Du Đà La, thời có quyết cảm nghiệm.

(2) Toàn bộ kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” (thông thường gọi tắt là kinh Pháp Hoa) có 28 phẩm chia làm 7 quyển. Phẩm Phổ Môn này là phẩm thứ 25, thuộc về quyển thứ 7.

(3) Phật đây là đức Thích Ca Mâu Ni Phật.

(4) Tam thiên đại thiên (xem thích nghĩa ở sau kinh A Di Đà).

(5) Hằng hà sa (xem thích nghĩa ở sau kinh A Di Đà).

(6) Không thể cùng tận là phước đức đó còn mãi mãi không hết không dứt.

(7) Thân Phật, thân Duyên giác (Bích Chi Phật) và thân Thanh văn là thân của ba bực Thánh xuất thế gian.

(8) Từ Phạm Vương đến Tỳ Sa Môn (1 trong tứ Thiên Vương) là hiện thân của các vị trời cõi sắc và cõi dục đề độ chúng sanh.

(9) Chấp Kim Cang Thần là thần cầm chày Kim Cang, thường trừ dẹp tà ma ác quỉ để trợ chánh pháp, ủng hộ người tu hành chơn chánh.

(10) Thí vô úy là ban cho sự không sợ hãi, nghĩa là làm cho thoát khỏi sự hoạn nạn hiểm nguy tật bịnh v.v...

(11) Tứ chúng: 1) Tỳ kheo, 2) Tỳ kheo ni (2 chúng xuất gia), 3) Ưu bà tắc, 4) Ưu bà di (2 chúng tại gia).

(12) Trong hội Pháp Hoa, tháp của đức Phật Đa Bửu từ dưới đất hiện lên dừng tại trên lưng chừng không, để nghe Phật Thích Ca nói kinh và để chứng thật, (xem kinh Pháp Hoa quyển thứ tư, phẩm thứ 11).

(13) Trùng tụng là lời kệ tụng thuật lại những điều, những nghĩa đã nói ở trước.

(14) Bồ tát từ nơi pháp của đức Phật mà nên, là con pháp của đức Phật nên gọi là Phật tử.

(15) Thệ nguyện rộng sâu của Bồ tát đã trải qua nhiều kiếp và không thể lấy tâm tư suy đoán bàn luận đến được.

(16) Những sự khổ trong cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.

(17) Núi Tu Di xem lời (Thích nghĩa ở sau Hồng Danh).

(18) Những thứ nguyền, rủa, bùa, chú thuốc độc v.v... trở lại hại người chủ.

(19) Chơn quán: chơn trí soi chơn lý.

Thanh tịnh quán: Rõ thấu pháp tánh thanh tịnh.

Quảng đại trí huệ quán: Trí huệ rộng lớn suốt thấu tất cả pháp.

Bi quán: Lòng đại bi xem xét sự khổ của mọi loài để cứu vớt chúng.

Từ quán: Lòng đại từ thường xem xét mọi loài thường ưa thích những gì để ban sự vui cho chúng.

(20) Trí huệ phá tan sự mê lầm ngu dại như ánh sáng mặt trời trừ chỗ tối tăm nên gọi là huệ nhựt.

(21) Phiền não là những lòng tham, giận v.v... nó làm cho tâm người loạn động bứt rứt khổ sở, như bị lửa đốt.

(22) Diệu âm: Tiếng nhiệm mầu khai ngộ cho tất cả chúng sanh.

Quan Thế Âm: Tiếng quan sát thế gian để cứu giúp.

Phạm âm: Tiếng thanh tịnh.

Hải triều âm: Tiếng lớn vang khắp và đúng giờ, như tiếng nước triều trong biển.

(23) Bồ tát là nơi chúng sanh nương dựa để được mọi điều vui, cậy nhờ để được khỏi những sự khổ.

Chuyện Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thanh Cứu Khổ

Một chuyện linh cảm của đức Quan Thế Âm Bồ tát xảy ra vào năm 1940 (D.L.) do thầy giáo thọ Đạt Từ, trụ trì chùa Thiền Tôn (làng Thạnh Mỹ Lợi tỉnh Gia Định) tường thuật.

Hoặc trôi giạt biển lớn, các nạn quỉ cá rồng. Do sức niệm Quan Âm, sóng mòi chẳng chìm đặng.

Tại nam phần Việt Nam, gần đây có một người bổn xứ nhập tịch dân Pháp tên là Brillan. Bà thân của ông vốn tin trọng Phật, thường niệm Quan Thế Âm Bồ tát. Bà thường nhắc những chuyện linh cảm của Bồ tát để khuyên dạy con cháu. Vì thế ông Brillan sớm đã có tin tưởng Bồ tát. Lớn lên đi lính, lắm khi gặp việc bất tường ông thường niệm danh hiệu Quan Thế Âm Bồ tát, thời đều được toại nguyện. Lúc ông được bổ vào sở thủy phi thoàn thời ông đã lên chức Thiếu úy.

Năm 1940 D.L. một hôm Thiếu úy Brillan cùng với đại úy Touf-fan, Trung úy Retourna, ba người ngồi phi thoàn ra Côn Lôn.

Lúc trở về phi thoàn hư, nên đồng ngộ nạn ngoài biển khơi. Trong lúc nguy khốn chỉ còn dự bị để chờ chết vì sóng to chụp lên phi thoàn, mặc cho hai ông kia ríu rít gọi nhau lo kế thoát khổ, Thiếu úy chỉ cả tiếng kêu cầu Quan Thế Âm Bồ tát. Chiếc phi thoàn vẫn lững đững lờ đờ trên lượng sóng đến mấy tiếng đồng hồ. Rất may, một chiếc tàu đánh cá của người Nhật bắt gặp.

Sau khi thòng thang dây xuống cho ba người leo lên, chiếc phi thoàn liền chìm! Toàn trên tàu cả khách lẫn chủ, ai cũng lấy làm lạ. Tại sao chiếc phi thoàn lúc có người thời mãi mấy giờ vẫn bập bềnh không chìm, bây giờ không có người lại chìm liền như vậy? Thiếu úy lần lượt thuật lại sự linh cảm của Quan Thế Âm, ngày trước cũng như vừa rồi ngộ nạn phi thoàn ông luôn kêu cầu Bồ tát mà đều có ứng nghiệm. Chiếc phi thoàn kia đáng lẽ chìm liền khi sóng biển chụp lên, nhưng vẫn bập bềnh chở cả ba lên tàu rồi mới chìm đắm, đó phải chăng là do ai thần của Quan Thế Âm Bồ tát cứu hộ?

Nghe Thiếu úy trịnh trọng giải bày. Đại úy Touffan rất chú ý, vì Đại úy công nhận rằng chiếc phi thoàn lúc nãy không chìm là do một sự lạ lùng không thể có được, và nhớ rõ rằng Brillan chỉ một mặt chắp tay kêu gọi nhớ cầu cứu với một thiêng liêng nào, trong lúc ông và Trung úy Retourna lính quýnh không tìm ra chước thoát thân.

Từ đó về sau, Đại úy rất tín ngưỡng đạo Phật, và biết ơn đối với Quan Thế Âm Bồ tát. Muốn tỏ lòng thành. Đại úy cất một cái am thờ Phật rất trang hoàng tại Cát Lái (làng Thạnh Mỹ Lợi Gia Định). Thường ngày hai lần Đại úy đến am dâng hoa chiêm ngưỡng. Thỉnh thoảng Đại úy cũng có đến chùa Thiền Tôn cúng Phật trong những ngày lễ hay ngày Tam ngươn. Ông thường nhắc đến câu chuyện ngộ nạn phi thoàn trên đây và cũng vì đó mà ông tin Phật.

Hiện nay Đại úy đã đổi đi nơi khác. Cái am đã biến thành trại xưởng, nhưng Cai Tham vẫn ghi rõ chuyện trên và thường thuật lại cho người khác nghe.


IV/ Kinh Kim Cang

Hán dịch: Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch.

Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh

NGHI THỨC TRÌ TỤNG KINH KIM CANG

Bài Tán Hương:

Lư hương sạ nhiệt,

Pháp giới mông huân.

Chư Phật hải hội tất diêu văn,

Tùy xứ kiết tường vân,

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp:

Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị Ta bà ha. (7 lần)

(Trì chú này thì hơi miệng trong sạch)

Chân Ngôn Tịnh Ba Nghiệp:

Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

(Trì chú này thì thân miệng lòng đều trong sạch)

Chân Ngôn An Thổ Địa

Nam mô tam mãn, đa một đà nẫm, án, độ rô, độ rô địa vĩ, ta bà ha. (3 lần)

Chân Ngôn Phổ Cúng Dường:

Án nga nga nẳng, tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

(Trì chú này thì hoa hương cùng tiếng tụng niệm sẽ khắp cúng dường cả mười phương)

Phụng Thỉnh Bát Kim Cang:

Phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang.

Phụng thỉnh Bích Độc Thần Kim Cang.

Phụng thỉnh Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang.

Phụng thỉnh Bạch Tịnh Thủy Kim Cang.

Phụng thỉnh Xích Thanh Hỏa Kim Cang.

Phụng thỉnh Định Trì Tai Kim Cang.

Phụng thỉnh Tử Hiền Kim Cang.

Phụng thỉnh Đại Thần Kim Cang.

Phụng Thỉnh Tứ Bồ Tát:

Phụng thỉnh Kim Cang Quyến Bồ tát.

Phụng thỉnh Kim Cang Sách Bồ tát.

Phụng thỉnh Kim Cang Ái Bồ tát.

Phụng thỉnh Kim Cang Ngữ Bồ tát.

Phát Nguyện Văn:

Nam mô Thập phương Thường trụ Tam bảo. (3 lần)

Khể thủ tam giới Tôn,

Quy mạng thập phương Phật.

Ngã kim phát hoằng nguyện:

Trì thử Kim Cang kinh.

Thượng báo tứ trọng ân,

Hạ tế tam đồ khổ.

Nhược hữu kiến văn giả,

Tất phát Bồ đề tâm.

Tận thử nhứt báo thân,

Vãng sanh Cực Lạc quốc.

Vân Hà Phạm:

Vân hà đắc trường thọ,

Kim Cang bất hoại thân?

Phục dĩ hà nhân duyên

Đắc đại kiên cố lực?

Vân hà ư thử kinh

Cứu cánh đáo bỉ ngạn?

Nguyện Phật khai vi mật

Quảng vị chúng sanh thuyết.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Khai Kinh Kệ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.

Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ tát Ma Ha Tát. (3 Lần)

PHẬT NÓI: KINH KIM CANG BÁT NHÃ (1) BA LA MẬT

1. Pháp Hội Nhơn Do

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật ở trong vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, tại nước Xá Vệ, cùng với chúng đại Tỳ kheo, một nghìn hai trăm năm mươi người câu hội. (2)

Lúc đó, gần đến giờ ăn, đức Thế Tôn đắp y, cầm bát, vào thành lớn Xá Vệ mà khất thực.

Trong thành ấy, đức Phật theo thứ tự, ghé từng nhà, khất thực xong (3) trở về Tinh xá, dùng cơm, rồi cất y bát, sau khi rửa chân xong, đức Phật trải tòa mà ngồi.

2. Ông Tu Bồ Đề Thưa Hỏi (4)

Bấy giờ, ông Trưởng Lão Tu Bồ Đề, ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bên vai hữu, gối bên hữu quỳ sát đất, cung kính chắp tay, mà bạch cùng đức Phật rằng:

"Hi hữu thay, đức Thế Tôn! Đức Như Lai khéo hay hộ niệm (5) các vị Bồ tát, và khéo hay phó chúc (6) cho các vị Bồ tát!

Bạch đức Thế Tôn! Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời phải trụ tâm như thế nào, nên hàng phục tâm mình như thế nào?"

Đức Phật dạy: "Hay thay! Hay thay! Này Tu Bồ Đề! Đúng như lời của ông vừa nói, đức Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, và khéo hay phó chúc cho các vị Bồ tát.

"Nay ông nên lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói. Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải trụ tâm như thế này, phải hàng phục tâm mình như thế này".

"Vâng, bạch đức Thế Tôn! Con xin vui thích muốn nghe."

3. Đại Thừa Chánh Tông

Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: "Các vị đại Bồ tát phải hàng phục tâm mình như thế này: bao nhiêu những loài chúng sanh, hoặc là loài noãn sanh, hoặc loài thai sanh, hoặc loài thấp sanh, hoặc loài hóa sanh, hoặc loài có hình sắc, hoặc loài không hình sắc, hoặc loài có tư tưởng, hoặc loài không tư tưởng, hoặc loài chẳng phải có tư tưởng, mà cũng chẳng phải không tư tưởng, (7) thời Ta đều làm cho được diệt độ, và đưa tất cả vào nơi vô dư Niết bàn (8). Diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh như thế, mà thiệt không có chúng sanh nào là kẻ được diệt độ cả. Tại sao vậy? Này, Tu Bồ Đề! Nếu vị Bồ tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thời chẳng phải là Bồ tát.

4. Diệt Hạnh Vô Trụ

Tu Bồ Đề! Lại nữa, vị Bồ tát, đúng nơi pháp, phải nên không có chỗ trụ trước mà làm việc bố thí. Nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà bố thí, không trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà bố thí. (9)

Này, Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát phải nên bố thí như thế, chẳng trụ trước nơi tướng. Tại vì sao? Vì nếu vị Bồ tát, không trụ trước nơi tướng mà bố thí, thời phước đức nhiều không thể suy lường.

Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ sao? Có thể suy lường được cõi hư không ở phương đông chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn, không thể suy lường được."

"Tu Bồ Đề! Có thể suy lường được cõi hư không ở phương nam, tây, bắc, cõi hư không ở bốn hướng cạnh, (10) và cõi hư không ở trên, dưới, chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không thể suy lường được."

"Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí, thời phước đức cũng lại như thế, không thể suy lường được.

Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát chỉ phải nên đúng như lời Ta đã dạy đó mà trụ tâm.

5. Thấy Chơn Thiệt Đúng Lý

Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ sao? Có thể do nơi thân tướng mà thấy Như Lai chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không thể do nơi thân tướng mà thấy được Như Lai. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói thân tướng đó chính là chẳng phải thân tướng." (11)

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Phàm hễ có tướng đều là hư vọng cả! Nếu nhận thấy các tướng đều là không phải tướng, chính là thấy Như Lai".

6. Chánh Tín Rất Hi Hữu

Ông Tu Bồ Đề bạch cùng đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như có chúng sanh nào được nghe những câu trong bài giảng giải như vậy, mà sanh lòng tin là thiệt chăng?"

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Ông chớ nói lời ấy! Sau khi đức Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, có người trì giới, tu phước, có thể sanh lòng tin nơi những câu trong bài này mà cho đó là thiệt, thời phải biết rằng người ấy chẳng phải chỉ vun trồng căn lành nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà người đó đã vun trồng căn lành từ nơi vô lượng nghìn muôn đức Phật rồi.

Như có ai nghe những câu trong bài này sanh lòng tin trong sạch nhẫn đến chừng trong khoảng một niệm. Tu Bồ Đề! Đức Như Lai đều thấy, đều biết, những chúng sanh đó đặng phước đức vô lượng dường ấy. Tại vì sao? Vì những chúng sanh đó không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp, cũng không có tướng phi pháp. Tại vì sao? Vì những chúng sanh đó, nếu trong lòng chấp tướng, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.

Nếu chấp tướng pháp, thời chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, và vì nếu chấp tướng phi pháp, thời cũng chính là chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, vì thế cho nên, chẳng nên chấp pháp, và cũng chẳng nên chấp phi pháp.

Cũng bởi nghĩa đó, Như Lai thường dạy rằng: "Này, các Tỳ kheo, các ông phải biết rằng, pháp của Ta nói ra đó, dụ cũng như thuyền bè, (12) đến pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi pháp!" (13)

7. Vô Đắc Vô Thuyết

Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Đức Như Lai có nói pháp chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Như con hiểu ý nghĩa của Phật nói, thời không có pháp nhứt định nào, gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhứt định nào, mà đức Như Lai có thể nói được. Bởi vì sao? Vì pháp của đức Như Lai nói, đều không thể vin lấy, không thể nói được, chẳng phải pháp, chẳng phải "không phải pháp". Tại vì sao? Vì tất cả Hiền Thánh, đều do nơi pháp vô vi mà có từng bực khác nhau". (14)

8. Y Pháp Xuất Sanh Công Đức

"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Như có người đem bảy thứ báu, đầy cả cõi tam thiên, đại thiên, để làm việc bố thí, phước đức của người đó đặng, có nhiều hay chăng?"

Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều! Tại làm sao? Vì phước đức đó, chính là không phải thật phước đức, cho nên đức Như Lai nói là phước đức nhiều".

"Còn như có người, nơi trong kinh này, nhẫn đến thọ trì một bài kệ bốn câu v.v... lại giảng nói cho người khác, thời phước đức này trội hơn phước đức trước. Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Tất cả các đức Phật, và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của các đức Phật, đều từ kinh này mà có ra. Này Tu Bồ Đề! Phật pháp nói đó chính chẳng phải là Phật pháp.

9. Nhứt Tướng Không Có Tướng (15)

"Tu Bồ Đề! Vị Tu Đà Hoàn có thể tự nghĩ là mình chứng được quả Tu Đà Hoàn chăng?" (16)

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn, không thể được! Bởi vì sao? Vì vị Tu Đà Hoàn, gọi là bực Nhập Lưu, mà chính không nhập vào nơi đâu, chẳng vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đó gọi là Tu Đà Hoàn".

"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Vị Tư Đà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình được quả Tư Đà Hàm chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn không thể được! Bởi vì sao? Vì vị Tư Đà Hàm gọi là bực Nhất Vãng Lai, mà thiệt không có vãng lai, đó gọi là Tư Đà Hàm".

"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Vị A Na Hàm có thể tự nghĩ rằng, mình được quả A Na Hàm chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn không thể được! Bởi vì sao? Vì vị A Na Hàm gọi là bực Bất Lai, mà thiệt không có tướng bất lai, cho nên gọi là A Na Hàm".

"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Vị A La Hán có thể tự nghĩ rằng, mình chứng được quả vị A La Hán chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn không thể được! Bởi vì sao? Vì thiệt không có pháp chi gọi là A La Hán. Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vị A La Hán nghĩ thế này: Ta chứng được quả vị A La Hán, thời chính là còn chấp trước tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.

Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật dạy rằng con được môn "vô tránh Tam muội", (17) là bực nhứt trong mọi người, là bực A La Hán ly dục thứ nhứt.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu con tự nghĩ rằng mình được quả vị A La Hán, thời chắc đức Thế Tôn chẳng nói: Tu Bồ Đề là người ưa hạnh tịch tịnh. Bởi Tu Bồ Đề thiệt không móng niệm, mới gọi Tu Bồ Đề là ưa hạnh tịch tịnh".

10. Trang Nghiêm Tịnh Độ

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Ý của ông nghĩ thế nào? Thuở xưa, hồi ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, đức Như Lai có chứng đắc nơi pháp chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không. Hồi ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, nơi pháp, đức Như Lai thiệt không có chỗ chứng đắc."

"Này, Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Bồ tát có trang nghiêm Phật độ chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không, tại vì sao? Vì trang nghiêm Phật độ đó, chính chẳng phải trang nghiêm, đó tạm gọi là trang nghiêm."

"Này, Tu Bồ Đề! Vì thế các vị đại Bồ tát, phải nên sanh tâm thanh tịnh như vầy: chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, và pháp, mà sanh tâm, nên "không chỗ trụ trước" mà sanh tâm thanh tịnh kia.

Này, Tu Bồ Đề! Ví như có người, thân như núi chúa Tu Di, (18) ý của ông nghĩ thế nào? Thân của người đó, có lớn chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất lớn. Bởi vì sao? Vì đức Phật nói chẳng phải thân, đó mới gọi là thân lớn."

11. Phước Đức Vô Vi Thù Thắng

"Tu Bồ Đề! Như trong một sông Hằng có bao nhiêu số cát, lại có những sông Hằng nhiều như số cát đó. Ý của ông nghĩ thế nào? Số cát trong những sông Hằng đó, chừng có nhiều chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Nội những sông Hằng đã là nhiều vô số rồi, huống nữa là số cát trong sông!"

"Này, Tu Bồ Đề! Nay Ta nói thật mà bảo ông: Nếu có trang nam tử, người thiện nữ nhơn nào đem bảy thứ báu đầy cả ngần ấy Hằng hà sa số cõi Tam thiên đại thiên để làm việc bố thí, người đó đặng phước có nhiều không?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều."

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Nơi trong kinh này, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... và giảng nói cho người khác nghe, thời phước đức này hơn phước đức trước kia.

12. Tôn Trọng Chánh Giáo

Này Tu Bồ Đề! Lại nữa, tùy chỗ nào giảng nói kinh này, nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... phải biết chỗ đó, tất cả Trời, Người, A tu la... trong đời, đều nên cúng dường như là tháp miếu thờ đức Phật. Huống nữa là, có người nào hay thọ trì, đọc tụng, trọn cả kinh này!

Này Tu Bồ Đề! Phải biết người ấy thành tựu pháp tối thượng, hy hữu bực nhứt.

Còn nếu kinh điển này ở tại chỗ nào, thời chỗ đó chính là có đức Phật, hoặc có hàng tôn trọng Đệ tử của Phật." (19)

13. Thọ Trì Đúng Như Pháp

Bấy giờ, ông Tu Bồ Đề bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Tên gọi kinh này là gì? Chúng con phải phụng trì thế nào?"

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề rằng: "Kinh này tên là Kim Cang Bát nhã Ba la mật, ông nên theo danh tự ấy mà phụng trì.

Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề, đức Phật nói Bát nhã Ba la mật, chính chẳng phải Bát nhã Ba la mật, đó gọi là Bát nhã Ba la mật.

Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có chỗ nào nói pháp chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai không có chỗ nào nói pháp".

"Tu Bồ Đề! Ý của ông nghĩ thế nào? Bao nhiêu vi trần trong cõi tam thiên, đại thiên, thế là nhiều chăng?" (20)

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều".

"Này Tu Bồ Đề! Những vi trần ấy, đức Như Lai nói chẳng phải vi trần, đó tạm gọi là vi trần. Đức Như Lai nói thế giới cũng chẳng phải thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới.

Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Có thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng?" (21)

"Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng có thể do ba mươi hai tướng mà thấy được Như Lai.

Bởi vì sao? Đức Như Lai nói ba mươi hai tướng chính chẳng phải tướng, đó gọi là ba mươi hai tướng."

"Tu Bồ Đề! Như có trang thiện nam, người thiện nữ nào, đem thân mạng, bằng số cát sông Hằng ra bố thí. Nếu lại có người giữ theo trong kinh này, mà thọ trì nhẫn đến những bài kệ bốn câu v.v..., mà giảng nói cho người khác nghe, thời phước của người này nhiều hơn người trên."

14. Vắng Lặng Lìa Tướng

Bấy giờ, ông Tu Bồ Đề nghe đức Phật nói kinh này, thời ông hiểu thấu nghĩa thú (22) của kinh, nên ông buồn khóc, rơi lệ mà bạch với đức Phật rằng:

"Hi hữu thay, đức Thế Tôn! Đức Phật nói kinh điển rất sâu xa dường ấy, từ ngày đặng huệ nhãn đến nay, con chưa từng được nghe kinh điển như thế này.

"Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người được nghe kinh này, mà có lòng tin thanh tịnh, thời chính là sanh thiệt tướng. Phải biết người ấy thành tựu công đức hi hữu bực nhất.

Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tướng đó chính chẳng phải tướng, cho nên đức Như Lai gọi là thiệt tướng.

Bạch đức Thế Tôn! Nay con được nghe kinh điển như thế này, con tin hiểu, thọ trì, chẳng đủ lấy làm khó.

Nếu khoảng năm trăm năm rốt sau ở đời tương lai, mà có chúng sanh nào đặng nghe kinh này, rồi tin hiểu thọ trì, thời người ấy chính là hi hữu bực nhứt.

Bởi vì sao? Người ấy không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả.

Vì sao thế? Vì tướng ngã chính là không phải tướng, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, chính là không phải tướng!

Bởi vì sao? Vì rời lìa tất cả tướng, chính đó gọi là chư Phật".

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Đúng thế! Đúng thế! Lại như có người được nghe kinh này mà lòng không kinh hãi, không e sợ, không nhút nhát, thời phải biết, người đó rất là hi hữu. Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Đức Như Lai nói môn Ba la mật thứ nhất chính chẳng phải môn Ba la mật thứ nhất, đó tạm gọi là môn Ba la mật thứ nhất.

Này Tu Bồ Đề! Môn Nhẫn nhục Ba la mật, đức Như Lai nói đó chẳng phải Nhẫn nhục Ba la mật, mà tạm gọi là Nhẫn nhục Ba la mật.

Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Như Ta thuở xưa, bị vua Ca Lợi chặt đứt thân thể. (23) Trong lúc đó, Ta không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả.

Vì sao vậy? Vì thuở xưa, trong lúc thân phận bị chặt rời rã đó, nếu Ta còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thời lẽ ra Ta khởi lòng hờn giận.

Này Tu Bồ Đề! Ta lại nhớ hồi thuở quá khứ, trong năm trăm đời, Ta làm vị Tiên nhẫn nhục. Trong bao nhiêu đời đó, Ta không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả.

Tu Bồ Đề! Vì thế nên, Bồ tát phải rời lìa tất cả tướng, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sanh tâm. Nên sanh tâm không trụ trước vào đâu cả.

Nếu như tâm còn có chỗ để trụ, thời chính là chẳng phải trụ, cho nên đức Phật nói, tâm của Bồ tát chẳng nên trụ trước nơi sắc mà bố thí.

Này Tu Bồ Đề! Bồ tát vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên phải bố thí như thế. Đức Như Lai nói tất cả các tướng chính là không phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh chính là chẳng phải chúng sanh.

Này Tu Bồ Đề! Đức Như Lai là bực nói lời chân chánh, lời chắc thiệt, lời đứng đắn, lời không phỉnh phờ, lời không sai khác.

Này Tu Bồ Đề! Pháp của đức Như Lai chứng đặng, pháp ấy, không thiệt, không hư. (24)

Này Tu Bồ Đề! Nếu tâm của Bồ tát trụ trước nơi pháp mà làm việc bố thí, thời như người vào chỗ tối tăm, liền không thấy đặng chi cả.

Nếu tâm của Bồ tát, không trụ trước nơi pháp mà làm việc bố thí, thời như người có mắt sáng, lại có ánh sáng của mặt trời chiếu đến liền thấy các thứ hình sắc.

Này Tu Bồ Đề! Về đời đương lai, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, có thể thọ trì, đọc tụng kinh này, liền được đức Như Lai dùng trí huệ của Phật, đều biết rõ người ấy, đều thấy rõ người ấy, thảy đều được thành tựu công đức vô lượng, vô biên.

15. Công Đức Trì Kinh

Này Tu Bồ Đề! Nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, vào khoảng buổi sáng, đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí, vào khoảng buổi trưa, lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí, vào khoảng buổi chiều cũng đem thân mạng, bằng số cát sông Hằng để bố thí; trong vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp, đem thân mạng bố thí như thế.

Lại như có người nào, nghe kinh điển này mà sanh lòng tin không trái, thời phước của người này, hơn phước của người trước kia, huống chi là biên chép, thọ trì, đọc tụng, nói cho người khác nghe!

Này Tu Bồ Đề! Tóm tắt mà nói đó, thời kinh này có vô biên công đức không thể nghĩ bàn, không thể cân lường được.

Đức Như Lai vì người phát tâm đại thừa mà nói, vì người phát tâm tối thượng thừa mà nói.

Như có người nào, có thể thọ trì, đọc tụng, giảng nói rộng ra cho người khác nghe, thời đức Như Lai đều biết rõ người ấy, đều thấy rõ người ấy, thảy đều được thành tựu công đức không thể lường được, không thể cân được, không có ngằn mé, không thể nghĩ bàn được.

Những người như thế, chính là người gánh vác pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của đức Như Lai.

Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Vì nếu người nào ham ưa pháp tiểu thừa, chấp trước tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thời ở nơi kinh này, người ấy không thể nghe nhận, đọc tụng và giảng nói cho người khác nghe được.

Này Tu Bồ Đề! Nếu những nơi chỗ nào mà có kinh này, thời tất cả Trời, người, A tu la..., trong đời đều nên cúng dường. Phải biết chỗ đó chính là tháp thờ đức Phật, đều phải cung kính lễ lạy, đi nhiễu quanh, (25) đem các món hoa hương mà rải trên chỗ đó.

16. Sạch Trừ Nghiệp Chướng

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Như có trang nam tử, thiện nữ nhân nào, thọ trì, đọc tụng, kinh này, lại bị người khinh tiện; thì những tội nghiệp đã gây ra trong đời trước, người ấy đáng lẽ sẽ phải đọa vào ác đạo, nhưng bởi trong đời nay, bị người khinh tiện, nên tội nghiệp đã gây ra trong đời trước đó, liền được tiêu diệt, người ấy sẽ đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tu Bồ Đề! Ta nhớ lại hồi thuở trước đức Phật Nhiên Đăng ra đời, vô lượng vô số kiếp về quá khứ, Ta gặp đặng tám trăm bốn nghìn muôn ức na do tha các đức Phật, lúc ấy Ta thảy đều hầu hạ, cúng dường, không có luống bỏ qua.

Về đời mạt thế sau này, nếu lại có người hay thọ trì, đọc tụng kinh này, thời công đức của những người ấy được, nếu đem so sánh với công đức cúng dường các đức Phật của Ta trong thuở trước, thời công đức của Ta sánh không bằng một phần trăm, một phần nghìn, muôn, ức, cho đến tính đếm thí dụ đều chẳng bằng được.

Này Tu Bồ Đề! Về đời mạt thế sau này, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì, đọc tụng, kinh này, công đức của những người đây đặng, nếu Ta nói đủ hết cả ra, hoặc có kẻ nghe đó, trong lòng liền cuồng loạn, nghi ngờ, không tin.

Này Tu Bồ Đề! Phải biết rằng, vì nghĩa lý của kinh này chẳng thể nghĩ bàn được, nên quả báo cũng không thể nghĩ bàn được!"

17. Rốt Ráo Không Ngã

Bấy giờ, ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải trụ tâm như thế nào? Phải hàng phục tâm mình như thế nào?".

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Trang thiện nam, người thiện nữ, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó, thời phải sanh tâm như vầy: Ta phải diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh xong, mà không có một chúng sanh nào thiệt diệt độ.

Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát mà còn có tướng ngã; tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thời chính là chẳng phải Bồ tát.

Vì cớ sao? Này Tu Bồ Đề! Vì thiệt ra không có pháp chi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả?

Tu Bồ Đề, nơi ý của Ông nghĩ thế nào? Ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai có pháp chi được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không, như chỗ con hiểu nghĩa lý của lời Phật dạy, thời đức Như Lai ở nơi đức Phật Nhiên Đăng, Đức Thế Tôn đã không có pháp chi mà được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả."

Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Này Tu Bồ Đề! Thiệt không có pháp chi đức Như Lai đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tu Bồ Đề! Nếu còn có pháp nào mà đức Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời đức Phật Nhiên Đăng bèn chẳng thọ ký cho Ta rằng: "Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni."

Bởi thiệt không có pháp chi để được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên đức Phật Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ta, mà nói lời này:

"Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni." Bởi vì sao? Vì Như Lai đó chính là nghĩa các pháp như như. (26)

Nếu có người nói rằng: Đức Như Lai được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tu Bồ Đề! Thiệt ra không có pháp chi mà đức Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tu Bồ Đề! Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của đức Như Lai chứng được, trong đó không thiệt, không hư, vì thế đức Như Lai nói, tất cả pháp đều là Phật pháp.

Này Tu Bồ Đề! Tất cả pháp mà đức Phật nói đó, chính chẳng phải tất cả pháp, cho nên gọi là tất cả pháp.

Này Tu Bồ Đề! Ví như thân người cao lớn."

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai nói thân người cao lớn, chính là chẳng phải thân cao lớn, đó tạm gọi là thân cao lớn".

"Này Tu Bồ Đề! Bồ tát cũng như thế. Nếu nói lời như vầy: Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, thời vị đó không gọi là bực Bồ tát.

Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Thiệt không có pháp chi gọi là Bồ tát.

Vì thế, Như Lai nói tất cả pháp, không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả.

Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát nói như thế này: Ta phải trang nghiêm Phật độ, thời vị ấy không gọi là bực Bồ tát.

Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói trang nghiêm Phật độ đó, chính chẳng phải trang nghiêm, đó tạm gọi là trang nghiêm.

Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát thông đạt được lý không ngã, không pháp đó, (27)thời Như Lai gọi là thiệt phải bực Bồ tát.

18. Xem Đồng Một Thể

Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có nhục nhãn chăng?" (28)

"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế, đức Như Lai có nhục nhãn."

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có thiên nhãn chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có thiên nhãn."

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có huệ nhãn chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có huệ nhãn."

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có pháp nhãn chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có pháp nhãn."

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Đức Như Lai có Phật nhãn chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Đức Như Lai có Phật nhãn."

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Như bao nhiêu cát trong sông Hằng, đức Phật có nói là cát chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế, đức Như Lai nói là cát."

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Ví như có bao nhiêu cát trong một sông Hằng, thì cũng có số những sông Hằng, bằng số cát như thế, cõi Phật như bao nhiêu số cát trong những sông Hằng đó, như thế cõi Phật đó có nhiều chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều!"

Đức Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Bao nhiêu thứ tâm niệm của tất cả chúng sanh trong ngần ấy cõi nước, đức Như Lai đều biết rõ. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói các thứ tâm đều là chẳng phải tâm, đó gọi là tâm. Vì cớ sao thế? Này Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ chẳng thể đặng, tâm hiện tại chẳng thể đặng, tâm vị lai chẳng thể đặng.

19. Thông Hóa Phật Giáo

Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Như có người đem bảy thứ báu, đầy cả cõi tam thiên đại thiên để dùng bố thí. Do nhơn duyên như thế, người ấy có được phước, có nhiều chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Đúng thế. Người đó, do nhân duyên ấy, được phước rất nhiều."

"Này Tu Bồ Đề! Nếu dùng phước đức là có, hữu vi, thì đức Như Lai chẳng nói là được phước đức nhiều.

Do vì phước đức là không, vô vi, nên đức Như Lai mới nói là được phước đức nhiều."

20. Lìa Sắc Lìa Tướng

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý ông nghĩ thế nào? Có thể do sắc thân cụ túc, mà thấy được đức Phật chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên do sắc thân cụ túc mà thấy được đức Như Lai. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói sắc thân cụ túc, chính chẳng phải sắc thân cụ túc, đó gọi là sắc thân cụ túc."

"Này Tu Bồ Đề! Nơi ý ông nghĩ thế nào? Có thể do nơi các tướng cụ túc mà thấy được đức Như Lai chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không. Chẳng nên do nơi các tướng cụ túc mà thấy được đức Như Lai. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai nói các tướng cụ túc, nhưng chẳng phải cụ túc, đó gọi là các tướng cụ túc."

21. Chẳng Phải Năng Thuyết Sở Thuyết

"Này Tu Bồ Đề! Ông chớ nói rằng đức Như Lai nghĩ thế này: Ta nên có chỗ thuyết pháp, ông đừng nghĩ như thế.

Bởi vì sao? Vì nếu người nào nói rằng: Đức Như Lai có thuyết pháp, thời là hủy báng đức Phật, không hiểu được nghĩa lý của Phật nói.

Này Tu Bồ Đề! Thuyết pháp đó chính thiệt không có pháp chi nói được, đó gọi là thuyết pháp."

Bấy giờ, ông Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Trong thời vị lai, chừng có chúng sanh nào nghe nói pháp này mà sanh lòng tin chăng?"

Đức Phật dạy rằng: "Này Tu Bồ Đề! Chúng sanh kia chẳng phải chúng sanh, cũng chẳng phải là không phải chúng sanh. (29)

Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Những chúng sanh đó, đức Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, đó tạm gọi là chúng sanh". (30)

22. Không Pháp Chi Có Thể Đặng

Ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là không có chỗ chi là được sao?"

Đức Phật dạy rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Này Tu Bồ Đề! Ta ở nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhẫn đến không có chút pháp chi có thể gọi là được đó mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

23. Tịnh Tâm Hành Thiện

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Pháp đó bình đẳng, không có cao, thấp, đó gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Do vì không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, mà tu tất cả pháp lành, liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tu Bồ Đề! Pháp lành đã nói đó đức Như Lai nói chính chẳng phải pháp lành đó gọi là pháp lành.

24. Phước Đức Trí Tuệ Không Chi Sánh Bằng

Này Tu Bồ Đề! Như trong cõi tam thiên, đại thiên, có bao nhiêu núi chúa Tu Di, nếu có người góp cả bảy thứ báu lại, bằng những núi Tu Di đó, đem dùng mà bố thí.

Nơi kinh Bát nhã Ba la mật này nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... nếu có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho kẻ khác nghe, thời phước đức của người bố thí trước, sánh không bằng một phần trăm, một phần nghìn, muôn ức, cho đến tính đếm thí dụ đều chẳng bằng được.

25. Hóa Độ Không Người Được Hóa Độ

Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Các ông chớ cho rằng đức Như Lai nghĩ như vầy: Ta phải hóa độ chúng sanh. Này Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ như thế. Bởi vì sao? Vì thiệt không có chúng sanh nào đức Như Lai độ cả. Nếu có chúng sanh mà đức Như Lai độ đó, thời đức Như Lai còn có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

Này Tu Bồ Đề! Đức Như Lai nói có ngã đó chính chẳng phải có ngã, mà kẻ phàm phu lại cho là có ngã.

Này Tu Bồ Đề! Phàm phu đó, đức Như Lai nói chính chẳng phải phàm phu, đó tạm gọi là phàm phu.

26. Pháp Thân Không Phải Sắc Tướng

Này Tu Bồ Đề! Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Có thể do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai".

Đức Phật dạy rằng: "Này Tu Bồ Đề! Nếu do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai đó, thời vua Chuyển Luân Thánh Vương chính là đức Như Lai rồi!" (31)

Ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lý của đức Phật nói, thời chẳng nên do nơi ba mươi hai tướng mà xem là đức Như Lai".

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Nếu dùng sắc thấy ta,

Dùng tiếng tăm cầu ta,

Người ấy tu đạo tà!

Chẳng thấy được Như Lai.

27. Không Đoạn Không Diệt

Tu Bồ Đề! Nếu ông nghĩ thế này: Đức Như Lai, không phải vì có tướng cụ túc mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác!

Tu Bồ Đề! Ông cũng đừng nghĩ như vầy: Đức Như Lai há chẳng do nơi tướng cụ túc mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sao?

Tu Bồ Đề! Nếu ông nghĩ như vầy: Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nói các pháp đều đoạn diệt. Ông đừng nghĩ như thế. Bởi vì sao? Vì nơi các pháp, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không nói tướng đoạn diệt.

28. Chẳng Nhận Lấy Chẳng Tham

Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ tát đem bảy thứ báu đầy cả những cõi nước bằng số cát sông Hằng để làm việc bố thí.

Nếu lại có người biết lý vô ngã của tất cả pháp mà đặng thành nhẫn trí. (32) Vị Bồ tát này được công đức hơn phước đức của vị Bồ tát trước. Bởi vì sao? Này Tu Bồ Đề! Vì các vị Bồ tát không nhận lấy phước đức."

Ông Tu Bồ Đề bạch với đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Tại sao các vị Bồ tát không nhận lấy phước đức?"

"Này Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát phàm có làm việc phước đức thời chẳng nên tham trước, vì thế nên nói là chẳng nhận lấy phước đức.

29. Oai Nghi Vắng Lặng

Này Tu Bồ Đề! Nếu có người nói: Đức Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, thời người ấy không hiểu nghĩa của Phật nói.

Bởi vì sao? Vì Như Lai đó, không từ nơi nào lại, mà cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai!

30. Nghĩa Lý Nhứt Hiệp Tướng

Này Tu Bồ Đề! Như có trang thiện nam, người thiện nữ, đem cõi tam thiên đại thiên đập nát ra vi trần. Nơi ý ông nghĩ thế nào? Các vi trần đó có nhiều chăng?"

Ông Tu Bồ Đề bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều. Bởi vì sao? Vì nếu những vi trần đó là thiệt có, thời đức Phật chẳng nói là những vi trần.

Vì cớ sao thế? Vì đức Phật nói những vi trần chính chẳng phải những vi trần, đó gọi là những vi trần.

Bạch đức Thế tôn! Cõi tam thiên, đại thiên của đức Như Lai nói, chính chẳng phải thế giới, đó gọi là thế giới. Bởi vì sao? Vì nếu thế giới là thiệt có ấy, thời là một hợp tướng.

Đức Như Lai nói một hợp tướng chính chẳng phải một hợp tướng, đó gọi là một hợp tướng". (33)

"Này Tu Bồ Đề! Một hợp tướng đó bèn là chẳng thể nói được, chỉ nơi kẻ phàm phu tham trước việc ấy thôi.

31. Tri Kiến Không Sanh

Này Tu Bồ Đề! Như có người nói: Đức Phật nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. (34) Nơi ý của ông nghĩ thế nào? Người ấy hiểu nghĩa lý của Phật nói chăng?"

"Bạch đức Thế Tôn! Không. Người ấy không hiểu nghĩa lý của đức Phật nói. Bởi vì sao? Đức Thế tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chính chẳng phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, đó gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến".

"Này Tu Bồ Đề! Nơi tất cả pháp, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, chẳng sanh pháp tướng.

Này Tu Bồ Đề! Pháp tướng nói ra đó, đức Như Lai nói chính là không phải pháp tướng, đó gọi là pháp tướng.

32. Ứng Hóa Không Phải Chơn Thật

Này Tu Bồ Đề! Như có người đem bảy thứ báu đầy cả vô lượng vô số cõi nước để làm việc bố thí. Như có trang thiện nam, người thiện nữ nào, phát tâm Bồ đề, thọ trì kinh này, nhẫn đến một bài kệ bốn câu v.v... tự mình thọ trì, đọc tụng, lại giảng cho kẻ khác nghe, thời phước đức của người này hơn người trước.

Giảng nói cho người khác nghe như thế nào?:

"Không chấp lấy nơi tướng, như như chẳng động?"

Bởi vì sao?

Tất cả những pháp hữu vi

Khác nào mộng, huyễn, khác gì điện, sương.

Như bóng nước, như ảnh tượng.

Xét suy như thế cho thường chớ quên! (33)

33. Tin Nhận Vâng Làm

Đức Phật nói kinh này xong, ông Trưởng Lão Tu Bồ Đề cùng với các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả Trời, Người, A tu la v.v... trong thế gian, nghe những lời của Đức Phật dạy, thảy đều rất vui mừng, tin nhận, vâng theo tu hành.

KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA.

KIM CANG CHÂN NGÔN:

Án, hô rô, hô rô, xả duệ, mục khế, tá ha. (7 lần)

PHỔ HỒI HƯỚNG CHÂN NGÔN:

Án, Ta ma ra, Ta ma ra, Nhĩ ma nẵng tát cót ra. Ma ha, chước ca ra hồng. (7 lần)

Nhứt hồi hướng: Chân như thiệt tế tâm tâm khế hiệp.

Nhị hồi hướng: Vô thượng Phật quả, bồ đề niệm niệm viên mãn.

Tam hồi hướng: Pháp giới nhứt thiết chúng sanh đồng sanh Tịnh độ.

TÁN VIẾT:

Kim cang công đức,

Diệu lý nan lường,

Như Lai vị chúng quảng tuyên dương.

Thọ thí ngộ chân thường,

Dĩ chư hoa hương.

Phổ tán Pháp Trung Vương.

Nam Mô Kỳ Viên Hội Thượng Phật Bồ tát Ma Ha Tát. (3 Lần)

Thích Nghĩa Kinh Kim Cang

(1) Bát nhã (Phạm âm) Tàu dịch là Trí Huệ. Ba la mật (Phạm âm) Tàu dịch là Đáo Bỉ Ngạn (ý nói trọn nên hoàn toàn). Trí huệ hoàn toàn này có thể phá tất cả sự mê lầm trong thế gian và xuất thế gian, mà không có điều mê lầm nào phạm đến được, dụ như Kim Cang (một chất rất cứng có thể phá vỡ các chất khác, không chất gì cứng bằng).

(2) Xem lời thích nghĩa ở sau kinh A Di Đà.

(3) Theo thứ tự ghé từng mà khất thực đó là sau khi ghé nhà thứ nhứt liền ghé vào nhà kế bên (nếu đồ ăn chưa đủ dùng), tuần tự như thế nào cho đến khi vừa đủ ăn thì thôi. Không chọn nhà này bỏ nhà kia, mặc dầu là nhà giàu hay nhà nghèo, nhà sang hay nhà hèn. Đó là lòng Từ bi bình đẳng của đức Phật lưu lộ ra nơi cử chỉ vậy. Đức Phật đi khất thực là ý muốn cho mọi người được thấy nghi dung của Phật mà sinh lòng lành mộ đạo từ bi và để cho mọi người được phước, vì cúng dường cho đức Phật thời được phước đức rất lớn. Đức Phật là Vô thượng phước điền của tất cả chúng sanh!

(4) Tu Bồ Đề (Phạm âm) dịch là không sanh, là bực đại A La Hán, ngài tỏ ngộ lý chơn không bực nhứt trong hàng Thanh văn.

(5) Hộ niệm là để ý nghĩ nhớ đến hầu giúp đỡ cho.

(6) Phó chúc là giao phó dặn dò.

(7) Noãn sanh là loài từ trứng nở ra, như chim...

Thai sanh là loài từ bào thai đẻ ra như người...

Thấp sanh là loài từ chỗ ẩm ướt sanh ra, như trùn, đốm...

Hóa sanh là loài do sự biến chuyển hóa ra như Trời, địa ngục...

Có sắc là loài có sắc thân, nhu chúng sanh ở cõi dục cõi sắc.

Không sắc là loài không có thân bằng sắc chất, như chúng sanh ở cõi vô sắc.

Có tưởng là loài có tưởng gẫm suy nghĩ, như người.

Không tưởng là loài không tưởng gẫm suy nghĩ, như Trời Vô Tưởng.

Không phải có tưởng không phải chẳng có tưởng là loài không có sự tưởng gẫm thô mà có sự tưởng gẫm vi tế, như Trời Phi Phi Tưởng.

(8) Diệt độ là độ cho chúng sanh dứt sạch phiền não nghiệp chướng khỏi tất cả điều khổ lụy.

Vô dư Niết bàn là vắng bặt tất cả phiền não, nghiệp chướng và khổ lụy không còn sót thừa (cảnh giới của chư Phật).

(9) Dầu vẫn bố thí luôn luôn mà trong lòng không thấy có mình là người bố thí kẻ khác là người thọ thí và đồ vật v.v... là của bố thí. Lòng vắng lặng không để dính, mắc vào một điều gì, một sự gì nên gọi là không trụ trước. Không trụ trước thời lòng rỗng rang như hư không, nên phước đức cũng rộng lớn như hư không.

(10) Bốn hướng cạnh là Đông nam, Đông bắc, Tây nam, Tây bắc.

(11) Thân tướng là thân sắc vàng sáng chói đủ tướng tốt đẹp của Phật.

(12) Thuyền bè là vật tạm dùng để đưa người qua sông, đến bờ thời bỏ bè lên bộ. Giáo pháp của Phật cũng thế là những môn phương tiện đưa người tu hành qua khỏi sông mê, biển khổ. Khi lên bờ giác thì bỏ phương tiện.

(13) Pháp là pháp lành, pháp chánh, pháp Thánh, pháp Phật v.v...

Phi pháp là pháp ác, pháp tà, pháp phàm, pháp chúng sanh v.v...

(14) Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là quả vị cứu cánh của chư Phật mà cũng là bản thể chơn thật thanh tịnh của tất cả muôn loài, nơi đó, tuyệt vòng đối đãi, rời tướng ngữ ngôn, rời tướng văn tự, dứt tâm tư, bặt ý niệm... Nếu Vô thượng Chánh giác mà lời nói đến được, thời còn trong phạm vi tướng ngữ ngôn, là hư vọng, không phải thật Vô thượng Chánh giác. Nếu là thật Vô thượng Chánh giác thời không thể dùng lời nói kêu gọi được.

Pháp của đức Phật nói cũng như thế, rời tất cả tướng, dứt tư niệm, không thể cho là có, cũng không thể cho là không. Rời tất cả tướng nên không thể nói được, dứt tư niệm nên không thể duyên lấy, không phải có nên chẳng phải pháp, không phải không nên chẳng phải không phải pháp. Đó cũng gọi là vô vi pháp. Vô vi pháp vẫn tuyệt đối mà do nơi vô vi pháp tu hành lại có các bực Hiền Thánh cao thấp khác nhau ấy, chỉ bởi vì chỗ chứng ngộ của các ngài không đồng nhau đấy thôi.

(15) Thể tánh chơn thật làm tướng chung cho tất cả pháp, bình đẳng không có tướng sai khác, nên gọi là nhứt tướng.

(16) Trong Thanh văn thừa có 4 quả vị; trong 4 quả vị này do sự tu hành dứt kiến hoặc và tư hoặc trong tam giới mà chứng đặng. Kiến hoặc trong tam giới có 88 món, dứt sạch 88 món kiến hoặc thời thoát khỏi phàm phu dự vào hàng Thánh (Nhập lưu cũng gọi là Dự lưu, tiếng Phạn Tu Đà Hoàn), đây là quả vị thứ nhất.

Về tư hoặc, ở cõi dục có 9 phẩm, cõi sắc và vô sắc chung có 72 phẩm. Sau khi chứng bực Tu Đà Hoàn (đã dứt 88 món kiến hoặc) thời phải tu hành dứt tư hoặc. 9 phẩm tư hoặc cõi dục nó làm cho vị Tu Đà Hoàn phải bị 7 đời sanh tử ở cõi dục. Dứt được 6 phẩm trước thời chỉ còn 1 lần sanh tử ở cõi dục nên gọi là Nhứt lai (Tư Đà Hàm, Phạm âm) đây là quả vị thứ 2. Dứt luôn 3 phẩm sau thời không còn bị sanh vào cõi dục nữa nên gọi là Bất lai (A Na Hàm, Phạm âm) đây là quả vị thứ 3. Dứt sạch luôn cả 72 phẩm tư hoặc cõi sắc và vô sắc thời thoát hẳn vòng sanh tử luân hồi nên gọi Vô sanh (A La Hán, Phạm âm) đây là quả vị thứ 4.

(17) Vô tránh Tam muội là môn chánh định cao siêu hơn hết trong các môn chánh định của hàng Thanh văn.

(18) Tu Di (xem lời thích nghĩa sau kinh A Di Đà).

(19) Hàng tôn trọng đệ tử của đức Phật như các ngài: Xá Lợi Phất, Ma Ha Ca Diếp v.v...

(20) Vi trần là bụi nhỏ.

Tam thiên đại thiên thế giới (xem lời thích nghĩa sau kinh A Di Đà).

(21) Trên thân Phật có 32 tướng tốt:

1. Nhục kế (đỉnh đầu thịt nổi vun lên rất đẹp),

2. Lông trắng giữa chặn hai chơn mày (bạch hào),

3. Tròng mắt đen trắng phân minh,

4. Lông nheo như của Ngưu Vương,

5. Gương mặt tròn trịa đầy đặn như trăng rằm,

6. Răng đủ 40 cái,

7. Răng nhỏ đều khít khao,

8. Răng trắng trong tinh sạch,

9. Lưỡi rộng dài, khi le ra có thể trùm cả mặt đến mí tóc,

10. Tiếng nói thanh tao và nghe được rất xa,

11. Trong cổ hầu thường có chất nước trong cổ rịn ra,

12. Thân mình nở nang tròn suông,

13. Mã âm tàng,

14. Hai bên hông đầy đặn,

15. Hai tay dài quá gối,

16. Cánh tay và bàn tay da thịt mềm dịu như bông,

17. Ngón tay dài và vót,

18. Vế như của Lộc Vương,

19. Lưng hai bàn chân no tròn,

20. Lòng bàn chân bằng phẳng,

21. Gót chân tròn trịa,

22. Lòng bàn chân có chỉ xoáy rõ ràng như bánh xe nghìn cọng,

23. Ngón tay và ngón chân đều có da mỏng như lưới mịn, trong suốt như pha lê dính liền nhau,

24. Bảy chỗ trong thân đều đầy đặn (2 lòng bàn tay, 2 lòng bàn chân, hai vai, yết hầu),

25. Tất cả lỗ chân lông đều có lông đẹp,

26. Lông và tóc đều xoắn tròn về phía hữu,

27. Da mịn màng trơn láng,

28. Màu da như màu vàng ròng tử kim,

29. Thân hình cao lớn hơn mọi người,

30. Hình tướng đoan nghiêm,

31. Thân hình ngay thẳng vững vàng,

32. Thường có ánh sáng sắc vàng ròng chiếu ra một tầm.

Trên đây là 32 tướng chánh, còn có rất nhiều tướng tốt khác như bát thập tùy hình hảo v.v...

(22) Nghĩa thú là nghĩa lý và chỉ thú.

(23) Thuở quá khứ, nước Ba La Nại, có vị quốc vương hiệu Ca Lợi. Một hôm Vua dẫn quan quân và cung phi đi du ngoạn cảnh núi rừng. Trong khi nhà Vua nằm nghỉ dưới bóng cây vì mỏi mệt, các cung phi rủ nhau đi hái hoa rừng để đem về hiến Vua. Trên gộp đá, các cung phi gặp một nhà tu dung nghi oai nghiêm khác thường, Đại Tiên Sằn Đề Ba La đang tịnh tọa! Tỏ lòng kính ngưỡng, các cung phi đồng dâng hoa cúng dường Đại Tiên rồi chỉnh tề ngồi hai bên nghe Đại Tiên giảng dạy đạo lý.

Vừa lúc đó Vua và quan quân kéo đến. Thấy cung phi mình kính ngưỡng Đại Tiên, nhà Vua không bằng lòng, liền đến trước gộp đá.

- Người ở đây làm việc gì? Nhà Vua hỏi gằn từng tiếng một.

- Tôi ở đây tu hạnh nhẫn nhục. Đại Tiên thong thả đáp.

- Để ta thử ngươi! Vua Ca Lợi nói với một giọng mỉa mai đầy căm tức. Dứt lời, Vua tuốt gươm chặt cụt hai cánh tay của Đại Tiên rồi hỏi tiếp: “Người ở đây làm việc gì?”

- Tôi ở đây tu hạnh nhẫn nhục. Đại Tiên ung dung đáp. Càng tức giận, nhà Vua chặt luôn cả hai chân rồi kế đến lại lắc tai lắc mũi của Đại Tiên. Mỗi lần như thế Vua đều hỏi: “Người ở đây làm việc gì?” Mắt không nháy, mặt không đổi sắc, với một giọng nhã nhặn hiền từ, Đại Tiên vẫn thản nhiên đáp: “Tôi ở đây tu hạnh nhẫn nhục”.

Thấy tư cách phi thường của Đại Tiên, nhà Vua đổi giận làm sợ. Đại Tiên lại dịu dàng nói đến Vua: “Nay nhà Vua lấy gươm sắt chặt đứt thi thể của ta, sau này, khi ta thành Phật, ta sẽ dùng gươm trí tuệ mà dứt giùm ác tâm của nhà Vua, để độ Vua trước nhất”.

Gươm rời khỏi tay, cả mình rởn ốc, nhà Vua bất giác sụp quỳ trước hạnh nhẫn nhục, tinh thần cao quý Vô thượng của Đại Tiên!

Vị Đại Tiên đó thuở xưa là đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện nay. Vua Ca Lợi ngày trước bây giờ là Kiều Trần Như vị Đại A La Hán được đức Phật độ trước nhất nơi Lộc Uyển.

(24) Không thiệt không hư nghĩa là không trụ trước vào tướng có và tướng không. Không trụ trước mới phải là pháp Vô thượng Chánh giác của Phật.

(25) Đi nhiễu quanh về phía hữu (từ Đông qua Nam Tây Bắc Đông) là tỏ vẻ cung kính thuận tùng.

(26) Như như bất động.

(27) Ngã là phần tác động chủ tể, như Phật, Bồ tát v.v... Pháp là phần thể chất, hình tượng, nghĩa lý, tức là những sự những điều có tánh cách riêng định có thể nhận đến được như: trang nghiêm, Phật độ, v.v...

Đức Phật dạy: “Không có pháp chi gọi là Bồ tát”. Đó là không ngã. Đức Phật lại dạy: “Như Lai nói trang nghiêm Phật độ chính chẳng phải trang nghiêm”. Đó là nói không pháp.

(28) Ngũ nhãn:

1. Nhục nhãn (mắt thịt), mắt thường bằng chất tứ đại (địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại) hiệp thành.

2. Thiên nhãn, tác dụng của sự thấy được xa trăm nghìn muôn ức dặm cho đến nhiều thế giới, thấy đến vật rất nhỏ như vi trùng, vi tử, khí chất v.v... và thấy suốt qua các chất ngại. Có 2 thứ Thiên nhãn: a) Sanh đắc Thiên nhãn: Thiên nhãn do phước báo mà cảm sanh ra, như Thiên nhãn của các cõi Trời. b) Tu đắc Thiên nhãn: Thiên nhãn do công phu tu tập chứng đạo quả mà có, như Thiên nhãn của A La Hán, Bồ tát, Phật. Thiên nhãn sau này hơn Thiên nhãn trên. Thù thắng nhất là của Phật. Tất cả vô lượng vô biên thế giới chúng sanh khắp trong pháp giới, Thiên nhãn của đức Phật thấy rõ ràng cả thảy.

3. Huệ nhãn, tác dụng của sự chứng thấu tánh thể không tịch vô ngã. Từ bực Thánh A La Hán trở lên mới có huệ nhãn. Các cõi Trời đến các loài dưới (phàm phu) đều không có.

4. Pháp nhãn, tác dụng của sự soi suốt huyễn trạng của hiện tượng tùy duyên vô pháp. Từ bực đại Bồ tát đến Phật mới có pháp nhãn, A La Hán trở xuống đều không có.

5. Phật nhãn, trí huệ viên mãn cứu cánh của Phật.

(29) Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh (Bồ đề tánh) nên nói chẳng phải chúng sanh. Nhưng không tự nhận lấy Phật tánh nên nói chẳng phải là không phải chúng sanh.

(30) Chúng sanh chúng sanh là nhiều loài chúng sanh. Tất cả chúng sanh đều sẵn đủ giống bát nhã nên đức Như Lai nói chẳng phải chúng sanh. Sẵn đủ mà chưa hiển lộ nên gọi là chúng sanh.

(31) (32) Tướng là tướng của ứng thân huyễn chất; còn pháp tánh thân mới thật là Như Lai. Thân vua chuyển luân cũng đủ 32 tướng, mà vua chuyển luân vẫn là phàm phu chớ chẳng phải Như Lai. Vì thế chỉ nhận 32 tướng nơi ứng thân mà cho là thật Như Lai thời chưa phải. Như Lai pháp thân rời tất cả sắc tướng, nên ở nơi sắc tướng mà thấy mà cầu Như Lai thời không thể thấy đặng. Vậy thời như thế nào? Đức Phật dạy: “Phàm hễ có tướng đều là hư vọng cả, nếu thấy các tướng đều là không phải tướng thời chính là thấy Như Lai.

(32) Hiểu biết nhân thật quyết định lý vô ngã của các pháp, gọi là vô sanh pháp nhẫn.

(33) Hiệp tướng là nhiều thứ hội hiệp làm thành một tướng thế giới.

(34) Ngã kiến, nhơn kiến v.v... là tình chấp cho có tướng ngã, tướng nhơn v.v...

(35) Mộng: cảnh giới trong chiêm bao.

Huyễn: những cảnh vật do huyễn thuật phù chú hóa hiện ra.

Điển: chớp nháng.

Sương: sương mù.

Bóng nước: bong bóng nổi trên mặt nước.

Ảnh tượng: bóng hình hiện ra trong gương, trong nước.

Pháp hữu vi: pháp do thi vi tạo tác mà có. Phàm tất cả những vật, những sự, những điều gì... bất luận thuộc về vật chất hay tinh thần trong thế gian cùng xuất thế gian, mà do nhơn duyên chi phối cấu tạo hòa hiệp làm thành, đều thuộc về pháp hữu vi cả. Do nhơn duyên chi phối mà có, nên đều là không thật thể, như mộng, như huyễn v.v...

V/ NIỆM PHẬT HỒI HƯỚNG NGHI THỨC (1)

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. (2)

Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. (3)

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thụ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. (4)

Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư.

Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát ba ha. (3 lần)

Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni (5)

Nam mô A di đa bà dạ. Đa tha già đa dạ. Đa điệt dạ tha.

A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ.

A di rị đa, tỳ ca lan đế.

A di rị đa, tỳ ca lan đa,

Già di nị, già già na,

Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

Tán Phật

A Di Đà Phật thân kim sắc,

Tướng hảo quang minh vô đẳng luân.

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu di,

Hám mục trừng thanh tứ đại hải.

Quang Trung hóa Phật vô số ức,

Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,

Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. (6)

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (10 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 lần)

Sám Thập Phương

Thập phương tam thế Phật

A Di Ðà đệ nhất

Cửu phẩm độ chúng sanh

Oai đức vô cùng cực.

Ngã kim đại quy y

Sám hối tam nghiệp tội (7)

Phàm hữu chư phước thiện

Chí tâm dụng hồi hướng. (8)

Nguyện đồng niệm Phật nhơn

Cảm ứng tùy thời hiện.

Lâm chung Tây phương cảnh

Phân minh tại mục tiền.

Kiến văn giai tinh tấn

Ðồng sanh Cực Lạc quốc.

Kiến Phật liễu sanh tử,

Như Phật độ nhứt thiết. (9)

Vô biên phiền não đoạn

Vô lượng pháp môn tu.

Thệ nguyện độ chúng sanh

Tổng giai thành Phật đạo.

Hư không hữu tận

Ngã nguyện vô cùng.

Hư không hữu tận

Ngã nguyện vô cùng.

Tình dữ vô tình,

Ðồng viên chủng trí. (10)

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như Lai,

Tam giả quảng tu cúng dường,

Tứ giả sám hối nghiệp chướng,

Ngũ giả tùy hỷ công đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy học Phật,

Cửu giả hằng thuận chúng sanh,

Thập giả phổ giai hồi hướng. (11)

Công Ðức Bảo Sơn Thần Chú (12)

Nam mô Phật đà da.

Nam mô Ðạt ma da.

Nam mô Tăng dà da.

Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha. (7 biến)

Hồi Hướng

Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi hướng.

Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,

Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát. (13)

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,

Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu.

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,

Thế thế thường hành Bồ tát đạo.

Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,

Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh

Bất thối Bồ tát vi bạn lữ. (14)

Nguyện dĩ thử công đức,

Phổ cập ư nhứt thiết,

Ngã đẳng dữ chúng sanh,

Giai cộng thành Phật đạo. (15)

Tam Quy

Tự Quy y Phật,

Đương nguyện chúng sanh,

Thể giải đại đạo,

Phát Vô thượng tâm. (1 lạy)

Tự Quy y Pháp,

Đương nguyện chúng sanh,

Thâm nhập kinh tạng,

Trí huệ như hải. (1 lạy)

Tự Quy y Tăng,

Đương nguyện chúng sanh,

Thống lý đại chúng,

Nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

Nguyện

A Di Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, dữ chư Thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.

Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí.

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Ðại từ Ðại bi A Di Ðà Phật. (1 lạy)

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Ðại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Thanh tịnh Ðại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Liên trì hải hội Phật, Bồ tát nhứt thiết Hiền Thánh Chúng chư Thượng Thiện Nhơn. (1 lạy)

Thích nghĩa Nghi Thức Niệm Phật Hồi Hướng

(1) Sau khi tụng kinh xong, (hoặc Di Đà, Hồng Danh hay Phổ Môn, Kim Cang v.v...) thời tiếp tụng nghi thức này.

(2) Quán Tự Tại Bồ tát là Ngài Quan Thế Âm Bồ tát, Bát nhã Ba la mật đa là trí huệ đáo bỉ ngạn (trí huệ cứu cánh).

Ngũ uẩn là: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

Xá Lợi Tử là Ngài Xá Lợi Phất. Chữ “Phất” là Phạm âm, dịch là “Tử” (con trai). Nên Xá Lợi Tử cũng như Xá Lợi Phất đồng nghĩa “con bà Xá Lợi” (tên của mẹ Ngài). Trong đây Ngài Quan Thế Âm Bồ tát nói kinh này với Ngài Xá Lợi Phất.

(3) Thọ, sắc v.v... là huyễn tưởng, không là thật tướng (tánh thể), huyễn tướng cùng thật tướng không rời nhau nên nói bất dị, mà cũng chính là nhau nên nói tức thị. Như sóng với nước.

(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là sáu căn. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp là sáu trần.

Sáu căn duyên sáu trần mà sanh sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

6 căn, 6 trần, 6 thức hiệp lại là 18 giới.

Vô minh là món thứ nhứt trong mười hai nhơn duyên, lão tử là món thứ 12 trong 12 nhơn duyên (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử).

Khổ, tập, diệt, đạo là tứ đế, pháp tu của hàng Thanh văn. Trí là trí tuệ, đắc là chỗ chứng được, đây là trí huệ và chỗ chứng của Bồ tát.

Tâm vô quái ngại là tâm không bị trụ trước không chướng ngại mà được tự tại.

Vô hữu khủng bố là không tất cả các điều sợ hãi mà được thường hằng an vui.

Viễn ly điên đảo mộng tưởng là xa lìa những vọng niệm đảo điên mê lầm chấp trước.

Cứu cánh Niết bàn là Niết bàn rốt ráo (Phật quả).

Thần chú dứt tất cả cội gốc của nghiệp chướng đặng sanh về cõi Tịnh độ (Cực Lạc quốc).

(6) Đức Phật A Di Đà thân sắc vàng (huỳnh kim).

Tướng tốt sáng rỡ không ai sánh bẳng.

Lông trắng giữa chặn hai chơn mày uyển chuyển như năm hòn núi Tu Di.

Cặp mắt xanh biếc như bốn biển cả.

Trong hào quang có vô số đức hóa Phật.

Chúng hóa Bồ tát cũng nhiều vô biên.

Bốn mươi tám điều nguyện độ chúng sanh.

Chín phẩm đều làm cho lên bờ giác.

(xem ở đoạn sau kinh A Di Đà).

(7) Sám hối những tội do thân, khẩu và ý gây ra.

(8) Bao nhiêu phước lành đều hồi hướng nguyện sanh về nước Cực Lạc.

(9) Liễu sanh tử là thoát khỏi sự sanh tử.

(10) Chủng trí nói đủ là nhứt thiết chủng trí tức là trí của Phật.

Bài thập phương đây là của Ngài Đại Từ Bồ tát soạn ra. Độ nhứt thiết là độ tất cả chúng sanh như đức Phật.

(11) Mười điều nguyện này cũng gọi là mười điều nguyện vương của đức Phổ Hiền Bồ tát, trích trong “Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm”.

(12) Trong Đại Tập Kinh nói: Chuyên tâm tụng thần chú này thời được công đức vô lượng, hiện tiền hưởng phước vô cùng sau khi chết được sanh về cõi Cực Lạc...”

(13) Vô Lượng Quang Phật sát là cõi của đức Phật A Di Đà, tức là nước Cực Lạc. 4 câu kệ này trích trong “Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm”.

(14) Người sanh về cõi Cực Lạc thời từ trong hoa sen nơi ao thất bảo mà hóa sanh ra, có chia làm 9 phẩm: Thượng phẩm thượng sanh, thượng phẩm trung sanh, thượng phẩm hạ sanh, trung phẩm thượng sanh, trung phẩm trung sanh, trung phẩm hạ sanh, hạ phẩm thượng sanh, hạ phẩm trung sanh, hạ phẩm hạ sanh.

Ngộ vô sanh là ngộ lý vô sanh thành vô sanh pháp nhẫn (xem lời thích nghĩa sau kinh Kim Cang).

Người sanh về Cực Lạc thời được gần gũi với các bực Bất thối Bồ tát (xem lời thích nghĩa kinh A Di Đà).

(15) Bốn câu kệ năm chữ này trích trong phẩm “Hóa thành dụ” kinh Pháp Hoa quyển thứ ba.

Phỏng Dịch Bài Sám “Thập Phương” Của Đại Từ Bồ tát Và Mười Điều Đại Nguyện Của Phổ Hiền Bồ tát.

Mười phương chư Phật ba đời

Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh

Sen vàng chín phẩm sẵn dành

Oai linh đức cả đã thành vô biên!

Nay con dưng tấm lòng thiềng (1)

Quy y với Phật sám liền tội căn,

Phước lành con có chi chăng,

Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây!

Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành,

Biết giờ biết khắc rõ rành.

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chánh niệm hơn thường,

Vãng sanh Lạc quốc đồng nương hoa vàng,

Hoa nở thấy Phật rõ ràng,

Thoát vòng sanh tử, độ an muôn loài.

Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,

Pháp môn tu học, chẳng còn dư,

Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến

Phật đạo cùng nhau chứng Trí, Như. (2)

Hư không cõi nọ dầu cùng,

Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên. (3)

Không tình cùng có đồng nguyền, (4)

Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.

Nay con lại nguyện tu hành,

Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười môn:

Một là nguyện lạy Thế Tôn

Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.

Hai, khen Phật đức rộng thinh,

Lời hay, tiếng tốt tận tình ngợi ca.

Ba, thời sắm đủ hương hoa,

Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.

Bốn, vì mê chấp lầm đường,

Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.

Năm, suy công đức vàn muôn,

Của Phàm của Thánh con đồng vui ưa.

Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,

Pháp mầu con thỉnh đã vừa (5) truyền trao.

Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,

Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư! (6)

Tám, thường tu học Ðại thừa,

Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con,

Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,

Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.

Mười, đem tất cả công huân,

Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.

Mười điều nguyện lớn nguyện rồi,

Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.

Chú thích sám “Thập phương” nghĩa

(1) Lòng thành

(2) Chánh trí Như Như

(3) Chẳng cùng tận, chẳng thiên chuyển

(4) Vô tình cùng hữu tình

(5) Đã vừa là đã phải thời

(6) Vô dư Niết bàn, cảnh giới của chư Phật.


VI/ Khai Thị Sơ Lược Bài Tựa Về Văn Mười Phương

Bài hồi hướng. “Thập phương”, văn chữ hán (số A) vốn là của ngài Đại Từ Bồ tát soạn ra. Sau khi tụng kinh cùng niệm Phật, tụng bài này cốt để đem bao nhiêu công đức tụng niệm đều hồi hướng cầu được vãng sinh về cõi Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Tụng bài này phước đức lớn lắm nên từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như nước Tàu, trong các chốn Thiền môn, luôn luôn dùng bài này phổ vào các thời khóa.

Còn từ “nhất giả” đến “thập giả” (số B) là mười điều nguyện rút ra trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyện” của kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh mỗi một nguyện ngài Phổ Hiền Bồ tát vì ngài Thiện Tài Đồng Tử và chúng hội Bồ tát mà giảng giải rất rộng, 10 câu tổng nên về mỗi nguyện thôi.

Phàm tụng văn hồi hướng, cần nhất người tụng phải hiểu rõ nghĩa lý trong văn, vì có hiểu thời chỗ hồi hướng phát nguyện mới thiết thiệt, tâm quán tưởng mới xác thật, công đức mới tăng trưởng. Nếu tụng mà không hiểu chi hết, thời hồi hướng đó là hồi hướng về đâu? Phát nguyện đó là phát những gì và như thế nào? Thành ra chỉ có tụng theo lệ suông thôi chắc khó thành tựu công đức được.

Vì lẽ trên đây, nên tôi không quản tài sơ văn vụng phỏng theo nguyên văn và y cứ nơi nghĩa trong kinh mà dịch cả hai bài (số A và số B) ra quốc văn. Dịch xong lại còn ngại vì trong sám văn có nhiều nghĩa sâu ẩn, khuất khúc, nên viết thêm đoạn thích nghĩa sau đây, (số 20 và 21) để giải rõ bổn quốc văn, ngõ hầu khi tụng đến, tụng chữ hiểu nghĩa, tâm và lý tương tương ứng khi hiệp, lâu lâu tinh thuần, thiện căn công đức chắc chắn là vô cùng vô tận vậy.

Hân Tịnh Tỳ Kheo

Thích Trí Tịnh

Cẩn chí

(20) Trong khoảng không gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta bà của đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta bà ra còn có vô biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một đức Phật làm giáo chủ, thế giới đã vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói: Mười phương chư Phật ba đời.

Trong vô lượng chư Phật ở mười phương ba đời đó, suy ra thời đức Phật A Di Đà là bậc nhất.

Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhất? –Đây nói bậc nhất là cứ nơi ứng hóa thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến pháp thân và báo thân, về pháp thân và báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng hóa thân là những chiếc thân vì chúng sinh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sinh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cùng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác đó cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ tát không đồng nhau vậy.

Về sự thù thắng nơi ứng thân của đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời có 4 điều nói:

A. Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn, như Trong kinh Tiểu bổn A Di Đà nói Quang minh của đức Phật đó vô lượng chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại, nên hiệu A Di Đà”.

Trong kinh Đại bổn A Di Đà nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà quang minh có hạn lượng, ít nhất là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha cõi nước của chư Phật, thời ta nguyện không chứng quả chính giác” (điều nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).

Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100, 1.000... do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1.000... thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm!

Vì quang minh vô lượng nên đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Đại bổn kinh:

1. Vô Lượng Quang,

2. Vô Biên Quang,

3. Vô Ngại Quang,

4. Vô Đối Quang,

5. Viêm Vương Quang (có chỗ để Diệm Vương Quang),

6. Thanh Tịnh Quang,

7. Hoan Hỷ Quang,

8. Trí Huệ Quang,

9. Nan Tư Quang,

10. Bất Đoạn Quang,

11. Vô Xứng Quang,

12. Siêu Nhật Quang.

Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời đức A Di Đà được phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

B. Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng; hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi... hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, v.v... như đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.

Còn về ứng thân của đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Tiểu bổn kinh nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Đại bổn kinh nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhất không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời ta nguyện không chứng quả chính giác”. Nên đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.

Đây là thọ mạng của đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

C. Về phần đồng cư nơi Cực Lạc, là cõi nước của đức Phật A Di Đà cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Đại bổn kinh, Tiểu bổn kinh và Quán kinh đã rộng thuật.

Lại trong bộ Yếu giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung, thọ lạc viên dung Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi thánh: Phương tiện độ, Thật báo độ, Thường tịch quang độ cõi trước là cõi của Nhị thừa thánh nhân, kế là cõi của đại Bồ tát, sau rốt là cõi của đức Phật).

Chứ so với các cõi khác, như Ta bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính là đồng cư độ của cõi Ta bà vậy, thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng điều khổ sở Ngũ trược v.v... lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.

Đây là cõi đức Phật A Di Đà, về phần đồng cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.

D. Nhân dân trong nước của đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng cũng đều trụ bậc “bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mãi đến thành Phật, không còn ngưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sinh bổ xứ Bồ tát” như ngài Quán Âm Thế Chí, hay là như Di Lặc v.v... số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền, cùng Thanh văn Duyên giác! Trong tiểu bổn kinh nói: “Nơi nước Cực Lạc, chúng sinh nào sinh về đó đều là bậc bất thối chuyển. A la hán và Bồ tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói là vô lượng vô biên vô số thôi”.

Bậc Thánh trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta bà có 62 ức hằng hà sa vị Bồ tát v.v...

Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Tiểu bổn kinh nói: “Thọ mạng của đức Phật đó và thọ mạng của nhân dân của ngài, vô lượng, vô biên, vô số kiếp”.

Đấy là nhân dân, La hán, Bồ tát của đức Phật A Di Đà trong các cõi nước mười phương vậy.

Vì những phần đặc thắng trên đây, nên trong văn nói:

“Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bậc nhất.”

Đối với chúng sinh, đức Phật A Di Đà có nguyện lực độ sinh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng nhất là đã nêu bày trong 48 điều nguyện của ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm trong mười phương! Lại trong Quán kinh có câu: “Phật tâm đó là lòng đại từ bi vậy dùng vô duyên từ nhiếp độ các chúng sinh”. Kinh lại nói: “Đức Vô Lượng Thọ Phật có 84.000 tướng, trong mỗi tướng đều có 84.000 tùy hình hảo, trong mỗi hình hảo lại có 84.000 áng sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật không lìa bỏ”.

Đức Phật A Di Đà có lòng từ, nguyện lớn, phóng quang minh tiếp độ chúng sinh không lìa bỏ, nên trong văn nói:

“Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.”

Do nguyện lực của đức Phật A Di Đà, nên những người được sinh về cõi Cực Lạc của ngài đều từ trong hoa sen báu nơi ao thất bảo mà hóa sinh, nghĩa là mượn hoa sen làm bào thai mà cho thân hình. Đó gọi là “liên hoa thanh tịnh hóa sinh”, cũng có câu “liên hoa vi phụ mẫu”. Vì người vãng sinh về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều ít không đồng nhau, nên hoa sen là chỗ thác sinh cũng có nhiều hạng, đại khái chia làm chín phẩm:

1. Thượng phẩm thượng sinh.

2. Thượng phẩm trung sinh.

3. Thượng phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc bậc đại thừa Bồ tát).

4. Trung phẩm thượng sinh.

5. Trung phẩm trung sinh (hai phẩm đây thuộc hàng nhị thừa Thánh nhân).

6. Trung phẩm hạ sinh (một phẩm đây thuộc hàng có công đức lành ở đời).

7. Hạ phẩm thượng sinh.

8. Hạ phẩm trung sinh.

9. Hạ phẩm hạ sinh (ba phẩm này thuộc về hạng người tạo ác nghiệp).

Cứ nơi chín phẩm trên thấy, thời thấy rằng từ bậc đại thừa Bồ tát, nhị thừa Thánh nhân, người lành tốt trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v... mà có gia công niệm Phật, thời đều được vãng sinh về cõi Cực Lạc cả (trừ người hủy báng Tam bảo).

Đức Phật A Di Đà sẳn đức từ bi nguyện lực, dùng chn phẩm liên hoa báu để chực chờ tiếp dẫn chúng sinh về nước của ngài. Nên trong văn nói:

“Sen vàng chín phẩm sẵn dành.”

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang chiếu phá sự mê tối của chúng sinh khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng sinh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an ổn không thối không thất, và hiện vô lượng thân đến khắp vô lượng thế giới để tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc. Đây là “linh thông”. Tâm của Phật không lúc nào quên chúng sinh, như cha mẹ hiền nhớ con, thương con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn mãn đây là “đức lành”. Như tiểu bổn kinh nói: “Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nghe nói đến đức Phật A Di Đà rồi hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm chung, đức Phật A Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên đảo, liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Các đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con”. Lại có câu: “Người nào niệm danh hiệu Phật, thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm cho các sự tai vạ tà ma, quỷ quái không đến gần được”.

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn nói:

“Oai linh đức cả đã dành vô biên.”

Từ đây nhẫn lên là giải một câu kệ về phần tán thán công đức của Phật:

“Mười phương chư Phật ba đời,

Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sinh.

Sen vàng chín phẩm sẵn dành

Oai linh đất cả đã dành vô biên.”

Đã rõ nơi đức Phật A Di Đà có vô lượng công đức thù thắng nếu không quy y với Phật còn quy y với ai. Quy y là đem cả thân mạng mình nương nơi Phật, gửi nơi Phật, giao phó cho Phật. Lại dùng lòng chí thành mà quy y. Trong văn nói:

“Nay con dưng tấm lòng thiềng, quy y với Phật...”

Từ thưở trước đến ngày nay, vì say mê nên đã lỡ lầm gây tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Ngày nay nhờ nghe kinh thấy Phật mà tỉnh ngộ, đã biết tự xét ăn năn, nên cũng mau mau dùng lòng chí thành mà sám hối tội lỗi, nghĩa là ăn năn tội trước, chừa cải lỗi sau. Nên trong văn nói:

“Sám liền tội căn.”

Nay tự suy lấy ta – Trong những đời đã qua, chắc có lẽ ta cũng đã có tu tạo ít nhiều phước lành chớ chẳng không, vì nếu không có phước lành thời quyết hẳn là không được sinh làm người, vì loài người thuộc về thiện đạo trong lục đạo. Lại trong kinh nói: gặp được Phật pháp là điều rất khó. Rất khó mà nay ta được nghe, thời chắc chắn ta đã có căn lành sẵn rồi, dầu có nhưng vì ta mê muội nên cách đời mà quên đi. Lại trong đời này, những ngày qua, hiện tại nay, và sau này, thời ta đã có làm lành, hiện tu tập và sẽ vun trồng cội phước. Dầu thế song còn thuộc hạng phàm phu, phiền não, nghiệp chướng đầy dẫy, thời làm lành đâu dám chắc là thiệt lành, làm phước đâu dám tự hào là thiệt phước, chỉ có trí huệ của đức Phật mới có thể nhận thiệt mà thôi, nên trong văn nói:

“Phước lành con có chi chăng?”

Nương phước mà ở mãi nơi Ta bà, thời chỉ được hưởng sự vui tạm bợ, hết phước tất phải khổ, huống trong vòng luân hồi, từ say mê càng vào mê, hễ mê thời dễ gây nghiệp, đâu bằng đem công đức hồi hướng cầu vãng sinh Cực Lạc thế giới ở Tây phương, để được hưởng sự vui thanh tịnh và bảo đảm giải thoát, đây văn nói:

“Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây.”

Từ đây trở lên là giải về bốn câu kệ quy y, sám hối và hồi hướng:

“Nay con dưng tấm lòng thiềng (thành)

Quy y với Phật, sám liền tội căn.

Phước lành con có chi chăng?

Ít nhiều cũng quyết niệm rằng về Tây.”

Pháp lữ đề huề, thân cận thiện hữu, là điều cần thiết mà từ đức Phật đến chư Tổ đều luôn luôn nhắc nhở. Cùng dạy bảo cho nhau, những sự nghĩa chân chính, những lý thú thâm huyền. Cùng nhau đồng hành pháp sự, đồng tu tịnh nghiệp. Cùng nhau tùy hỷ khi đắc ích, khuyên răn lúc sái lười... Mến nhau như ruột thịt, coi nhau như tay chân. Vì thế nên chẳng phải chỉ nghĩ riêng về phần mình, mà tâm tâm niệm niệm không quên mong mỏi cho thiện hữu, cũng như trông cầu cho tự mình, sớm đặng kết thành ứng nghiệm lành trên đường tu tập: chính là nguyện bạn cùng mình, trong ngày hiện tại nơi đời sống này, hoặc lúc thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, cảm cách đến Phật, đến Thánh chúng, đến Cực Lạc, mà được thấy kim thân của đức Phật, hoặc thấy hào quang, hoặc thấy liên hoa, hoặc thần du cõi Cực Lạc v.v... để cho lòng tin thêm kiên cố, nguyện hành càng tiến triển. Nên trong văn nói:

“Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành.”

Có nhân tất có quả. Nhân là tu tịnh nghiệp: niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc quốc. Qủa là khi mãn báo thân trược uế được thác chất liên hoa nơi ao báu ở Tây phương Cực Lạc thế giới. Trước ngày lâm chung, nguyện đức Phật tin cho biết rõ ngày giờ, để vững lòng chờ đợi. Đến lúc lâm chung, xin đức Phật y lời bổn nguyện lực, hiện thân vàng cùng cảnh Thánh cho mình được thấy, nói pháp cho mình được đã được thấy Phật, nghe pháp rồi, thời chính niệm càng tinh tấn, bội hơn ngày thường nên văn nói:

“Biết giờ biết khắc rõ rành

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chính niệm hơn thường.”

Chính niệm tinh tấn, tâm không mê muội, không điên đảo liền đặng vãng sinh về nước Cực Lạc thác chất nơi hoa sen thất bảo. Sau khi hoa nở, tâm nhãn khai thông đôi mắt thanh tịnh, thấy rõ thân quang minh tướng hảo của đức Phật, được Phật vì mình mà thuyết pháp mầu, liền ngộ lý vô sinh, chứng bậc bất thối, thoát hẳn vòng sinh tử luân hồi. Rồi cũng như đức Phật, dùng thần thông trí lực, vận dụng từ bi, hiện thân đến thập phương độ khắp mọi loài chúng sinh, đồng được giải thoát như mình đã được giải thoát. Như trong văn:

“Vãng sinh Lạc quốc đồng nương hoa vàng

Hoa nở thấy Phật rõ ràng

Thoát vòng sinh tử độ an muôn loài.”

Từ đây nhẫn lên là giải về 8 câu kệ vì mình vì người mà phát nguyện:

“Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành.

Biết giờ biết khắc rõ rành

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chính niệm hơn thường.

Vãng sinh lạc quốc đồng nương hoa vàng

Hoa nở thấy Phật rõ ràng

Thoát vòng sinh tử, độ an muôn loài.”

Muốn sau khi vào Cực Lạc được ở phẩm cao, thời phải có hạnh nguyện đại thừa vì ba thượng phẩm trong chín phẩm chỉ có đại thừa Bồ tát mới được dự phần. Nên người tu Tịnh độ cần phát “Tứ hoằng thệ nguyện”. Bốn nguyện này là những điều nguyện chung mà tất cả chúng đại thừa ai cũng phải đủ.

I. Thệ dứt tất cả phiền não, dầu là vô biên như văn nói:

“Phiền não vô biên, thệ dứt trừ.”

II. Nguyện học thông và tu tập tất cả pháp môn chính đạo của đức Phật truyền dạy, dầu là vô lượng như văn nói:

“Pháp môn tu học, chẳng còn dư.”

III. Lợi tha là chính hạnh của đại thừa, là hoài bão của Bồ tát. Nên thệ độ tất cả chúng sinh dầu là vô tận, độ đến đâu? Độ đến giác ngạn kia. Như nói:

“Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến.”

IV. Và mục đích cuối cùng, là nguyện mình cùng tất cả muôn loài đồng viên mãn chính trí, chứng nhập như như, tức là thành Phật đạo hoàn toàn, Phật đạo Vô thượng. Như văn nói:

“Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.”

Từ đây nhẫn lên là giải về bốn câu hoằng thệ viết theo thể tứ cú để cho có phần đặc biệt, là ý muốn người tụng đến phải chú ý:

“Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,

Pháp môn tu học, chẳng còn dư,

Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến

Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.”

Từ đây nhẫn xuống là 4 câu kết thúc lập chí bền chắc, giữ nguyện kiên cố, hư không chẳng bao giờ cùng tận, cái không cùng tận mà giả tỷ cho nó cùng tận đi nữa, nhưng những điều mà đã thệ nguyện ở trên đó, quyết không cùng tận, không mảy may dời đổi. Đây là ý nguyện của ta bền chắc vững vàng hơn cõi hư không. Những loài tình thức (người, vật v.v...) cùng với những loài không tình thức (núi, sông v.v...) khắp trong thế giới, ta đều bình đẳng nguyện cầu cho tất cả đồng viên thành trí huệ nhiệm mầu của Phật. Như văn nói:

“Hư không cõi nọ dầu cùng,

Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.

Không tình cùng có đồng nguyền,

Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.”

Hỏi: Loài có tình thức tu tập viên thành Phật trí thì phải, còn vô tình sao cũng đồng thành?

Đáp: Có hai nghĩa:

A. Vô tình là y báo, hữu tình là chính báo. Y báo là do chính báo cảm ra. Nên khi chính báo (hữu tình) thành Phật trí thời y báo (vô tình) cũng chuyển thành Phật cảnh. Vì nơi Phật, cảnh cùng trí không sai biệt, nên đồng viên thành Phật trí cũng không ngại, đó là lấy trí nhiếp cảnh vậy.

B. Giác tính ở nơi hữu tình thời gọi là Phật tính, ở nơi vô tình thời gọi là Pháp tính. Phật tính và pháp tính đều là giác tính. Thành Phật là viên chứng giác tính, ráo rốt bình đẳng viên dung, thời đâu còn có hữu và vô sai biệt cách ngại như phàm phu. Như thế, há lại không phải là đồng viên đồng thành đó ư?

(21) Vì muốn cho các điều hạnh nguyện trên được dung thông pháp giới, rộng lớn tuyệt đối, nên tiếp tục mười điều nguyện vương của ngài Phổ Hiền Bồ tát tuyên thuyết nơi Hoa Nghiêm đại hội. Viên mãn 10 nguyện vương này thời tức là mãn quả Phật vậy.

Phật dạy: chúng sinh lưu lãng trong vòng sinh tử, chính là vì trái quên tính giác và dong ruổi theo trần lao. Trần lao là món vô thường nên theo đó tất cả cũng lưu chuyển như nó. Nếu chúng sinh thức tỉnh, biết xét trở lại, rời trần lao mà xoay về giác tính thời hẳn luân hồi, vì giác tính là bổn thể bất động.

Bậc chứng cùng giác tính là đức Phật nên đều nguyện thứ nhất lễ Phật đây là biểu tượng trái trần lao hiệp giác tính. Như văn nói:

Một là nguyện lạy Thế Tôn,

“Phật Thế Tôn” là đấng Vô thượng chính giác tôn quý nhất trong thế gian và xuất thế gian.

Lạy Phật như thế nào?

Trong phẩm Hạnh nguyện, ngài Phổ Hiền có giảng giải điều đó như thế này: “Tất cả vi trần số chư Phật ở mười phương ba đời, do ta dùng sức hạnh nguyện Phổ Hiền, nên thâm tâm tin giải như đối trước mắt. Đều dùng thân, ngữ, ý ba nghiệp mà thường cung kính đảnh lễ luôn. Nơi mỗi đức Phật ta đều hiện ra vi trần số thân. Mỗi mỗi thân đảnh lễ khắp vi trần số đức Phật. Sự lễ kính của ta đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không xó xen hở, ba nghiệp không có nhàm mỏi”.

Trong văn tóm tắt:

Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.

2. Điều nguyện vương thứ hai là “khen ngợi Như Lai”.

Về điều nguyện này trong “Hạnh nguyện phẩm” nói: “Tất cả cõi nước trong mười phương ba đời có bao nhiêu vi trần, trong mỗi vi trần đều có vi trần số Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật đều có hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều phải dùng sức thắng giải hiện tiền tri kiến rất sâu, đều dùng thiệt căn nhiệm mầu hơn cả Biện Tài Thiên nữ. Mỗi mỗi thiệt căn vang ra biển, âm thanh vô tận, mỗi mỗi âm thanh diễn ra biển tất cả lời nói ngợi khen tán thán biển các công đức của tất cả Như Lai, cùng tột thuở vị lai nối luôn không ngớt, tận hư không đều cùng khắp cả”.

Tóm nghĩa kinh, văn nói:

Hai, khen Phật đức rộng thinh,

Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca.

3. Điều nguyện vương thứ ba là “Rộng sắm cúng dường”.

Hạnh nguyện phẩm giải rằng: Trong vi trần của tất cả cõi nước mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật, đều có hải hội các hàng Bồ tát vây quanh, ta do sức hạnh nguyện Phổ Hiền mà sinh tri kiến hiện tiền tín giải rất sâu, đều đem các thức đồ cúng dường thượng diệu để mà cúng dường. Những là mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc trời, mây tàn lọng, mây y phục trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương bột, hương xông... mỗi mỗi thứ mây đó lượng lớn như núi Tu di. Thắp các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, mỗi tim đèn lượng như hòn núi Tu di, dầu trong mỗi đèn như nước biển lớn. Dùng các thứ đồ cúng dường như thế thường đem cúng dường.

Này thiện nam tử! Pháp cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là: đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sinh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sinh để cúng dường, thay thế sự khổ cho chúng sinh để cúng dường, siêng tu căn lành để cúng dường, chẳng bỏ hạnh nguyện Bồ tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề để cúng dường.

Này thiện nam tử! với chừng một phần công đức của pháp cúng dường đem vô lượng phần công đức của tài cúng dường ở trước mà so sánh cũng không bằng một phần trăm, không bằng một phần nghìn, v.v...

Bởi sao? vì các đức Như Lai đều tôn trọng pháp vậy, vì tu hành đúng theo lời Phật dạy thời là xuất sinh các đức Phật vậy. Nếu các vị Bồ tát tu hành về pháp cúng dường, thời việc cúng dường đức Như Lai được thành tựu. Tu hành như thế là chân thật cúng dường. Cho nên đây là sự cúng dường rộng lớn tối thắng...”

Nơi văn lược nói:

Ba, thời sắm đủ hương hoa,

Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.

4. Điều nguyện thứ tư là “sám hối nghiệp chướng”. “Sám” là Phạm âm nói đủ là “sám ma”. Tàu dịch là “Hối quá”. Lấy chữ “sám” trong sám ma còn chữ “hối” trong hối quá mà gọi chung là ‘sám hối”, nghĩa là ăn năn chừa cải. “Nghiệp” là những việc tạo tác không lành của thân, khẩu, ý, nghiệp này nó làm ngại đường lành, nó ngăn đạo Thánh, nên gọi là nghiệp chướng.

Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:

“Bồ tát tự nghĩ như vầy: ta trong vô thỉ kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, sân hận, ngu si, phát ra nơi khẩu, ý mà đã làm ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng lành. Nếu nghiệp ác đó mà có thể tưởng thiệt, thời tất cả cõi hư không cũng không thể dung thọ cho hết. Nay ta đều đem ba nghiệp thanh tịnh, đối khắp trước tất cả chư Phật cùng chúng Bồ tát, mà thành tâm sám hối, về sau không phạm nữa, luôn trụ nơi giới pháp thanh tịnh tất cả công đức...”

Trong văn nói:

Bốn, vì mê chấp lầm đường,

Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.

5. Điều nguyện vương thứ năm là “tùy hỷ công đức”.

Thấy người khác có công đức mà mình thật tâm vui mừng tán thành, đó gọi là “tùy hỷ công đức”.

Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:

Vi trần số chư Phật Như Lai, từ khi mới phát tâm vì cầu nhất thiết chủng trí mà siêng tu phước và huệ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vi trần số kiếp. Trong mỗi kiếp xả thí vi trần số đầu mắt tay chân, thật hành tất cả hạnh khổ khó làm như thế. Viên mãn các môn Ba la mật, chứng nhập các trí địa Bồ tát, thành tựu đạo Vô thượng Bồ đề của chư Phật cho đến nhập Niết bàn phân chia Xá Lợi... Nơi đức Phật có bao nhiêu thiện căn thời ta đều tùy hỷ cả.

Và trong tất cả thế giới ở mười phương kia tất cả mọi loài lục đạo tứ sinh... có bao nhiêu công đức cho đến chừng một mảy trần ta đều tùy hỷ cả.

Tất cả Thanh văn và Bích Chi Phật, hàng hữu học cùng vô học trong mười phương ba đời, có bao nhiêu công đức ta đều tùy hỷ cả.

Bao quát nghĩa trên, trong văn nói:

Năm, suy công đức vàn muôn,

Của Phàm (tứ sinh) của Thánh (Phật, Bồ tát) con đồng vui ưa.

6. Điều nguyện vương thứ sáu là “Thỉnh chuyển pháp luân”.

“Thỉnh” là cầu thỉnh với đức Phật. “Chuyển” là diễn nói dạy trao. “Pháp luân” có hai nghĩa:

A. Vòng pháp, ý nói không cùng không tận, vô thỉ vô chung, không thể phân biệt nghĩ bàn, như vòng tròn.

B. Bánh xe pháp. Pháp của đức Phật có thể đưa người tu hành từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh, từ khổ sang vui, từ sinh tử đến trường tồn lại hay phá trừ tứ ma các chướng v.v... Như bánh xe lăn từ đây sang kia, cán rạp chông gai sạn sỏi v.v...

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Trong vi trần của tất cả cõi nước ở mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi nước rộng lớn, trong mỗi cõi nước niệm niệm đều có vi trần số đức Phật thành bậc Đẳng Chính Giác, mỗi đức Phật đều có tất cả hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều dùng thân, khẩu, ý đủ các phương tiện, để ân cần thỉnh tất cả chư Phật chuyển diệu pháp luân...”.

Bày nghĩa trên, văn nói:

Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,

Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.

“Thượng thừa” chính là tối thượng thừa, là Phật thừa chứng Phật thừa là thành Phật. “Pháp mầu” là vi diệu pháp luân. “Đã vừa” là vừa đến thời, vừa phải cơ.

Đức Phật thành Phật là vì chúng sinh mà thành Phật. Đã vì chúng sinh sao còn chờ cầu thỉnh?

a. Vì muốn cho chính pháp có phần quý trọng, có quý trọng mọi người mới sinh lòng hi hữu khao khát ngưỡng vọng, có khao khát ngưỡng vọng mới có thể được lợi ích.

b. Lòng của Bồ tát lúc nào cũng tha thiết nong nả đối với sự lợi người lợi mình. Mình cùng người được lợi không gì bằng được nghe Phật thuyết pháp, nên đức Phật chưa nói, mà Bồ tát đã cầu thỉnh trước.

7. Điều nguyện vương thứ bảy là “thỉnh Phật trụ lại đời”.

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “vi trần số chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời toan muốn nhập Niết bàn, và các Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, hữu học, vô học, cho đến các vị thiện tri thức... ta đều cầu thỉnh tất cả xin chớ nhập Niết bàn, xin ở mãi nơi đời trải qua vi trần kiếp vì muốn cho tất cả chúng sinh được lợi lạc...”

Như trong văn nói:

Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,

Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư!

“Lòng chẳng lãng xao” là tâm tâm niệm niệm cầu thỉnh luôn không ngừng không hở. “Vô dư” là vô dư y Niết bàn. “Niết bàn”, là cảnh giới sở chứng của các bậc Thánh xuất thế, nơi đó “tịch tịnh an thường”, “tịch tịnh an thường là nghĩa chính của “Niết bàn” khác hẳn với cảnh phàm phiền nhiễu loạn động.

Niết bàn có 4:

1. Hữu dư y Niết bàn

2. Vô dư y Niết bàn

3. Vô trụ xứ Niết bàn

4. Tinh tịnh Niết bàn.

Đây về vô dư y Niết bàn, là quả Niết bàn không còn thừa những báo và vô minh. Báo là thân hiện tại nơi thế. Ngoài đức Phật ra, từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đến Bích chi Phật, A la hán, đều còn vô minh. Nên cứu cánh vô dư y Niết bàn chỉ có bậc Phật là cùng tột.

Các bậc Thánh xuất thế không còn hệ lụy trong vòng sinh tử, nên muốn ở đời bao lâu vẫn được tự tại vô ngại. Do đó mới khuyến thỉnh vậy.

8. Điều nguyện vương thứ tám là “Thường học theo Phật”.

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Như đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai trong cõi Ta bà này, từ khi mới phát tâm, thời tinh tấn luôn không lui sụt. Đem bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng mà bố thí. Ngài lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực, để biên chép kinh điển, chứa nhiều như núi Tu di. Vì trọng pháp mà ngài không tiếc thân mạng, huống nữa là ngôi vua, thành ấp v.v... và các hạnh khổ khó làm khác. Cho đến dưới gốc cây ngài chứng quả Bồ đề. Ngài thị hiện và các món thần thông, khởi các thứ biến hóa hiện các hạng Phật thân ở các nơi chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các bậc đại Bồ tát, hoặc chúng hội đạo tràng Thanh văn, Bích chi Phật, cho đến chúng hội đạo tràng của Thiên, Long, bát bộ... Ở trong những chúng hội như thế, ngài dùng âm thanh viên mãn như sấm lớn vang dội, tùy theo chỗ hạp nghi của mỗi chúng hội mà nói pháp giáo hóa chúng sinh cho đến ngài thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả công hạnh của ngài như thế ta đều học theo. Như với đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn với tất cả chư Phật ở mười phương ta cũng luôn luôn học theo cả.

Ngụ bày những ý nghĩa trên, trong văn nói:

Nguyện thường tu học Ðại thừa,

Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.

Đã muốn bằng Phật sẽ tất nhiên là phải học theo Phật.

9. Điều nguyện thứ chín là “tùy thuận chúng sinh luôn”.

“Tùy thuận” đây chính ý là thiết tha lân mẫn chúng sinh, chiều theo chỗ hạp nghi, lòng nguyện vọng trong sạch của chúng sinh, mà thi hành những phương pháp gì để chúng sinh được lợi ích trên đường giải thoát khỏi khổ.

Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Bao nhiêu chúng sinh chủng loại sai khác ở mười phương, những là loài tứ sinh, hoặc loài nương nơi đất, nước, gió, lửa mà sinh trụ. Hoặc là loài nương nơi hư không và cỏ cây mà an trụ... cho đến Thiên, Long bát bộ, người cùng phi nhân, hoặc loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có sắc không sắc, có tưởng không tưởng v.v... Ở nơi các thứ như thế, ta nên tùy thuận mà thật hành những điều kính thờ, cúng dường, kính như kính cha mẹ, sư trưởng, A la hán cho đến như kính đức Như Lai không khác.

Với kẻ bệnh khổ thời ta là ông lương y; với kẻ lạc đường thời ta là người chỉ con đường chính; với kẻ trong đêm tối thời ta là người soi sáng; với kẻ nghèo cùng thời ta làm cho họ được kho báu. Bồ tát bình đẳng, lợi ích tất cả chúng sinh như thế. Tại làm sao? Vì nếu có thể tùy thuận chúng sinh, thời là tùy thuận cúng dường chư Phật, ở nơi chúng sinh nếu có thể tôn trọng thừa sự Như Lai, nếu làm cho chúng sinh sinh lòng vui mừng thời là làm cho tất cả đức Như Lai vui mừng.

Tại làm sao? Vì chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể vậy.

Nhân nơi chúng sinh mà sinh lòng đại bi, nhân nơi đại bi mà phát Bồ đề, nhân tâm Bồ đề mà thành bậc Đẳng Chính giác.

Ví như trong đồng trống sa mạc có cây thọ vương lớn, nếu như cây đó được thấm nhuần, thời nhánh lá bông trái thảy đều sum suê.

Cây thọ vương trong đồng trống sinh tử cũng lại như thế, tất cả chúng sinh là gốc rễ của cây, chư Phật, Bồ tát là bông trái. Dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh, thời tất có thể thành tựu bông Bồ tát cùng trái trí tuệ của chư Phật.

Bởi sao vậy? Vì nếu các Bồ tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sinh thời có thể thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế Bồ tát thuộc nơi chúng sinh, nếu không chúng sinh, thời tất cả Bồ tát trọn hẳn chẳng hề thành bậc Vô thượng chính đẳng chính giác. Này thiện nam tử! Đối với nghĩa đó, ông nên hiểu như thế.

Bởi ở nơi chúng sinh mà tâm bình đẳng, thời có thể thành tựu đức đại bi viên mãn. Dùng lòng đại bi để tùy thuận chúng sinh như thế...”

Lược nghĩa trên, văn nói:

Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,

Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.

“Pháp thân” là thân của chư Phật. Độ muôn loài viên mãn Phật quả chính là chỗ tùy thuận cứu cánh làm lợi ích cho chúng sinh vậy.

10. Điều nguyện vương thứ mười là “Đều hồi hướng khắp cả”.

Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Từ việc lễ bái” đầu tiên cho đến “tùy thuận chúng sinh” mà có bao nhiêu công đức, ta thảy đều đem cả hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Ta nguyện cho chúng sinh thường được an vui, không có các bệnh khổ. Như họ có muốn làm việc ác, thảy đều không thành. Còn những nghiệp lành của họ tu, thời đều mau thành tựu. Đóng bít tất cả cửa ác đạo, mở bảy đường chính: nhân, thiên, Niết bàn.

Nếu các chúng sinh, nhân vì họ gây tạo các nghiệp mà phải cảm vời lấy quả khổ rất nặng, thời ta nguyện chịu thế, để cho chúng sinh đó đặng giải thoát, rốt ráo thành tựu đạo Vô thượng chính giác.

Bồ tát tu nguyện hồi hướng như thế...”

Gồm ý trên, trong văn nói:

Mười, đem tất cả công huân,

Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.

Trong Hạnh nguyện phẩm, sau khi giảng giải mười điều nguyện vương xong, nơi đoạn đắc ích, về trường hàng có nói như vầy: “Lại nữa, người đó lúc mạng chung đến sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tán, hoại, tất cả hàng thân thuộc đều xa lìa, tất cả oai thế đều thối thất, nào quan phụ tướng đại thần, nào cung thanh nội ngoại, voi ngựa xe cộ của báu kho đụn... tất cả những món như thế không còn theo nhau, chỉ có 10 nguyện vương chẳng xa rời nhau, trong tất cả lúc nó dẫn đường nơi trước, trong khoảng một sát na liền đặng vãng sinh về cõi Cực Lạc. Đến rồi, liền thấy đức Phật A Di Đà, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ngài Phổ Hiền Bồ tát, ngài Quán Tự Tại Bồ tát, ngài Di Lặc Bồ tát v.v...

Và về phần kệ có những câu này:

Nguyện đến lúc tôi sắp mạng chung

Sạch trừ tất cả những chướng ngại,

Tận mắt thấy đức A Di Đà

Liền đặng vãng sinh về Cực Lạc,

Phật kia chúng hội đều thanh tịnh,

Ta liền từ thẳng liên hoa sinh,

Thấy rõ đức Phật Vô Lượng quang,

Hiện tiền trao tôi “Bồ đề ký”

Được đức Như Lai thọ ký xong,

Tôi hóa vô số trăm ức thân,

Sức trì “rộng lớn” khắp mười phương,

Lợi ích tất cả cõi chúng sinh.

Vì nương theo văn trong phẩm mà cũng chính là mục đích của người tu về pháp môn Tịnh độ, nên sau mười nguyện liên tiếp nói:

Phổ Hiền nguyện lớn nguyện rồi,

Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen.

Tất cả những đoạn giải thích trên đây, toàn là y cứ nơi kinh cả. Hoặc khi tụng sám văn, hoặc lúc xem thích nghĩa, chính đó là tụng xem nghĩa lý trong kinh thời công đức vô lượng. Như trong phẩm có nói: “Như có người thiện nam, người thiện nữ nào dùng của báu thượng diệu đầy đủ cả vi trần thế giới v.v... để bố thí chúng sinh trong tất cả thế giới, để cúng dường cho chư Phật, Bồ tát trong tất cả thế giới luôn luôn như vậy trải đến vi trần số kiếp không ngớt, công đức của người thiện nam hay thiện nữ này đặng sánh không bằng một phần trăm công đức, một phần nghìn công đức v.v... của người nghe nguyện vương này một phen thoáng qua tai...

Công đức của chúng sinh nào đọc tụng nguyện vương này và khắp vì người mà giảng nói, ngoài đức Phật ra không ai có thể biết được.

Dầu thế nào, đây cũng thuộc về phần tóm tắt. Nếu người nào muốn hiểu biết rõ ràng đầy đủ hơn, xin tụng đọc những bộ này:

1. Phật thuyết A Di Đà kinh, tức là tiểu bổn A Di Đà kinh.

2. Vô Lượng Thọ kinh, tức là Đại Bổn A Di Đà kinh.

3. Quán Vô Lượng Thọ kinh tức là Quán kinh.

4. Phổ Hiền hạnh nguyện phẩm.