TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Kính mời các bạn tham gia ghi lại kinh nghiệm tu tập và những gì mắt thấy tai nghe về sự cảm ứng nhờ hành trì giáo lý Phật.
dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Vào niên hiệu Thượng Nguyên (674-676), Tôn Tư Mạc nhờ uống Lưu châu đan và Vân mẫu phấn (thuốc luyện đơn của các đạo sĩ) nên thọ đến 150 tuổi mà tướng mạo trông giống như một đồng tử.

Lần nọ, ông đến Trường An, nói về những chuyện xảy ra trong các đời Tề, Ngụy rõ ràng như tận mắt trông thấy.
Ông còn chép bảy trăm năm mươi bộ KINH HOA NGHIÊM.

Vua Thái Tông muốn đọc kinh Phật, nên hỏi Tôn Tư Mạc:

- Kinh nào là lớn nhất?
Tôn Tư Mạc tâu:

- KINH HOA NGHIÊM là kinh lớn nhất.

Vua lại hỏi:
- Gần đây có bộ ĐẠI BÁT-NHÃ 600 quyển do tam tạng Huyền Tráng dịch nhưng sao không cho là lớn. Còn KINH HOA NGHIÊM chỉ có 80 quyển mà lại cho là lớn ư?

Tôn Tư Mạc thưa:
- Pháp giới Hoa Nghiêm đầy đủ tất cả. Trong một môn có thể diễn thành quyển kinh lớn bằng đại thiên thế giới. Còn KINH BÁT-NHÃ chính là một môn trong KINH HOA NGHIÊM mà thôi.

Nghe vậy, vua Thái Tông tỏ ngộ.
Ngài phát tâm thụ trì HOA NGHIÊM NHẤT THỪA BÍ GIÁO, cũng gọi là ĐẠI BẤT TƯ NGHỊ GIẢI THOÁT KINH.

Vì kinh này có công năng lớn nên sự cảm ứng cũng lớn.

Người học đạo muốn tu tập theo tâm tuệ của Phật, thấu rõ cảnh giới Phật, chứng đắc quả vị Phật, y theo biển pháp tính Nhất thừa này mà tu hành, thì không cần trải qua các giai vị.

Khi vừa phát tâm liền thành Chánh giác ngang bằng với các đức Như Lai trong ba đời.
Ví như giọt nước từ các dòng sông vừa chảy vào biển liền được gọi là nước biển.

Cũng vậy, nếu người nương theo Đại thừa, Nhị thừa, Quyền giáo mà tu đủ muôn hạnh, thì dù trải qua nhiều kiếp dài lâu cũng không bằng nghe kinh này.
Chỉ dùng một chút phương tiện liền sớm chứng quả Bồ-đề.
====
Trích sách « NHỮNG TRUYỆN CẢM ỨNG VỀ KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM”
-Biên Soạn: Cư Sĩ Hồ U Trinh, ở núi Tứ Minh
-Việt Dịch: Chúc Giải-Huệ Hạnh-Diệu Tuyền
-Hiệu Đính: Định Huệ - Biên tập: Thích Quảng An

==
===
***Ghi chú:
Trong khi giảng về "KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT" trong tập XXV, Hòa thượng Tuyên Hóa đã từng nói:

“Nếu quý vị có thể hiểu rõ được nghĩa lý trong bộ KINH HOA NGHIÊM này thì xem như thấy được TOÀN THÂN PHẬT.

Nếu quý vị thông suốt được KINH LĂNG NGHIÊM là thấy được đỉnh nhục kế của Phật.

Nếu quý vị thông suốt được KINH PHÁP HOA thì thấy được thân Phật, nhưng chưa trọn vẹn.

Nếu quý vị có thể thông suốt được đạo lý trong KINH HOA NGHIÊM thì sẽ thấy rõ được TOÀN THÂN và TUỆ MẠNG của Ngài.

-Bộ KINH HOA NGHIÊM này ví như biển lớn.

Còn những kinh khác giống như những dòng sông nhỏ.
Những dòng sông nhỏ không thể sánh với biển lớn.

-Hiện tại trên thế giới, người có thể giảng được KINH HOA NGHIÊM không phải không có, nhưng số đó đã ít lại càng ít.

-Nếu nói không có thì nay chẳng phải chúng ta đang giảng đó sao?

Thế sao lại có thể nói là không có người!

Thậm chí có người học Phật Pháp, học cả một đời, mà ngay đến tên KINH HOA NGHIÊM họ cũng chưa hề nghe qua.

-Quý vị nói xem người đó đáng thương biết nhường nào!
Bộ KINH HOA NGHIÊM này đừng nói là giảng mà chỉ đọc qua thôi cũng rất ít người đọc qua được một lần.

Đọc qua một lần nhanh nhất cũng phải mất hai mươi mốt ngày.

Vì thế, bộ kinh này rất khó gặp.”


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

LỘ TRÌNH TU TẬP CỦA MỘT VỊ BỒ-TÁT THEO PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

....
………..
Trong khi Thượng tọa bộ chấp nhận có bốn giai đoạn chứng đắc Thánh quả, đó là Dự lưu (sotapatti), Nhất lai (sakadagami), Bất lai (anagami), A-la-hán (arahantta), thì Phật giáo Đại thừa quan niệm có mười cấp độ tu chứng (THẬP ĐỊA BỒ-TÁT, Bodhisattvabhumi) trong lộ trình phát triển tâm linh.

Một vị Bồ-tát cần phải lấy “THẬP ĐỘ BA-LA-MẬT”2 để diệt trừ “THẬP CHƯỚNG”,3 qua đó có thể đạt được giải thoát như Phật.
Bài viết này trình bày chi tiết về lộ trình tu chứng của một vị hành giả theo Bồ-tát thừa (Phật thừa).

GIAI ĐOẠN TIỀN THẬP ĐỊA (BHUMI)

Tiền Thập địa là giai đoạn trước khi hành giả bước vào cảnh giới Bồ-tát sơ địa.
Nó rất cần thiết và cũng là điều kiện để hành giả từ địa vị “phàm phu”4 bước đến địa vị của bậc Thánh.

Điều đầu tiên là phát khởi niềm tin kiên cố, và nhờ niềm tin kiên cố ấy mà hành giả phát nguyện thọ giữ giới pháp, nhờ giới thanh tịnh nên hành giả ấy phát tâm Bồ-đề.
Sau đó bước vào thực hành các “địa”.
“Một chúng sinh phát tín nguyện (adhimukti) trải qua nhiều kiếp, làm rất nhiều công đức tràn đầy như nước biển đại dương, đã được thanh tịnh nhờ giữ Bồ-tát giới”.5
Trước địa thứ nhất gọi là “Niệm hành địa” (adhimukticarya bhumi), khi lời nguyện của hành giả an trú vĩnh viễn trong nội tâm, vị ấy được xem có Bồ-đề tâm, trở thành một vị Thánh (sơ Bồ-tát).
Danh từ chuyên môn gọi là Bổn tánh hành, được chia làm hai loại:
TÁNH TRÚ VÀ NIỆM HÀNH TRÚ.
1- TÁNH TRÚ (GOTRAVIHARA)
Tự tánh thuộc về một quý tộc chúng sinh, đầy đủ đức tính và mục đính cao đẹp.
Vị này làm những hạnh lành một cách tự nhiên, không cần ai khuyên nhủ, với lòng từ ái sáng suốt, đầy đủ chủng tử về Phật pháp, và không làm bất kỳ điều ác nào.
Khi ở giai đoạn này, vị ấy thường làm những việc sáng suốt, xa rời các pháp bất thiện.
Theo Thượng toạ bộ, giai đoạn này tương đồng với tiền Dự lưu;
Vị hành giả tập hợp các thiện căn6 cần thiết để từ địa vị phàm phu bước lên bậc Thánh.
2- NIỆM HÀNH TRÚ (ADHIMUKTICARYAVIHARA)
Niệm hành trú là những sự cố gắng đầu tiên của một vị Bồ-tát PHÁT TÂM BỒ-ĐỀ.
Hành giả khi làm xong bổn phận này thì chuẩn bị bước lên địa thứ nhất là HOAN HỶ ĐỊA.
Hành giả ở Niệm hành trú còn hạn chế rất nhiều, như chưa vượt qua được nỗi sợ hãi bị phỉ báng, chết, ác thú, đại chúng chỉ trích, v.v.

Với Trạch lực, cố gắng làm nhiều thiện sự lợi ích cho hữu tình chúng sinh bằng phát khởi lòng từ bi.
Kinh nói về Tiền thập địa như sau:
“…Nếu chúng sinh huân tập đầy căn lành, tu tập các hạnh thiện, giỏi tập hợp pháp trợ đạo, cúng dường các Đức Phật, tu tập các pháp Bạch tịnh thì được sự hộ trì của Thiện tri thức, vào được tâm sâu rộng, tin ưa đại pháp, lòng luôn hướng về đại bi, thích cầu trí tuệ của chư Phật.
Chúng sinh như vậy thì mới có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, được Nhất thiết chủng trí…”7
KINH HOA NGHIÊM đề cập đến 50 giai vị tu tập mà hành giả cần đạt đến, bao gồm:
Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng và Thập địa.
Tất cả đều theo thứ lớp, trong đó phân chia Thập tín thuộc về thứ bậc Nhập môn;
Còn Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng thuộc về thứ bậc Tam hiền, và Thập địa thuộc về thứ bậc của Bồ-tát Thánh nhân.
Ở đây xin được trình bày vắn tắt về Thập địa.
Những giai đoạn tu chứng Thập địa Bồ-tát
1- HOAN HỶ ĐỊA (PRAMUDITA BHUMI)
Hành giả do hoàn hoàn thiện 40 giai vị đầu nên ở quả vị này Bồ-tát đạt được sự an lạc thanh tịnh, sau khi đã đoạn trừ kiến hoặc và đã chứng đắc nhân không, pháp không.

Bồ-tát trải qua con đường tu tập phần lớn thông qua thực hành pháp bố thí ba-la-mật để đưa tâm thoát khỏi sự sợ hãi, khiếp nhược ngay cả nếu phải hy sinh đầu, mắt, chân, tay hay những bộ phận thân thể khác của mình, mục đích vì lợi ích của chúng sinh hữu tình.
Kinh dạy:
“Tâm đó lấy đại bi làm đầu, trí tuệ tăng lên, làm phương tiện giúp đỡ, trực tâm và thâm tâm hoàn hảo, lượng đồng với Phật lực, quyết định trọn vẹn chúng sinh lực và Phật lực.
Hướng đến trí vô ngại, thuận theo trí tự nhiên, có thể nhận lấy tất cả Phật pháp, dùng trí tuệ giáo hóa rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không đến tận đời vị lai.
Bồ-tát phát tâm như vậy tức thời vượt qua khỏi địa vị phàm phu, nhập vào quả vị Bồ-tát, sinh ra trong nhà của Đức Phật, dòng họ tôn quý, không thể chê trách hiềm nghi, vượt qua tất cả đạo thế gian, vào đạo xuất thế gian, ở trong pháp Bồ-tát, thuộc hàng những Bồ-tát, bình đẳng vào trong chủng tánh Như Lai ba đời, nhất định rốt ráo Vô thượng Bồ-đề.
Bồ-tát trụ ở pháp như vậy thì gọi là trụ ở địa Hoan hỷ bằng pháp bất động”.8
***Tâm ấy lấy đại bi làm đầu, ở đây có 9 thứ:
1) Lớn về tăng thượng (khổ càng vi tế thì trí càng sinh khởi phát triển),
2) Lớn về thâu tóm rộng khắp (cứu khổ chúng sinh theo phương tiện thiện xảo),
3) Lớn về sự tinh thần (luôn tạo lợi ích cho muôn loài chúng sinh với tâm từ bi phát triển),
4) Lớn về vô lượng (thâu giữ vô lượng diệu lực của Như Lai),
5) Lớn về quyết định (quyết định thượng diệu tin nơi trí sâu xa nơi sự đối trị thù thắng),
6) Lớn về tùy thuận (tùy thuận nơi chánh giác Bồ-đề),
7) Lớn về chánh thọ (có khả năng nhận lấy Chánh pháp thù thắng để chỉ dạy cho chúng sanh),
8) Lớn về chỗ vi diệu tột bậc (tức là thâu nhận các công đức thù thắng vi diệu),
9) Lớn về sự an trú cùng tận (tức là đạt được vô lượng quả yêu thích là nhân đạt đến cảnh giới Niết-bàn).
Khi tâm vượt qua hạng phàm phu thì bước vào quả vị Bồ-tát.
Trong kinh nói có tám thứ để vượt qua:
“Vượt qua nơi nhập vị, nơi nhà, nơi chủng tánh, nơi đạo, nơi thể của pháp, nơi chốn, nơi nghiệp, nơi tất định”.
9 Người đạt được địa Hoan hỷ sẽ phát vô lượng Đại nguyện, có thể bỏ cả của cải, vợ con, những vật thế gian và xuất thế gian (bố thí ba-la-mật) và thành tựu mười thiện tánh:
“TÍN, BI, TỪ, XẢ, NHẪN CHỊU KHỔ CỰC, TINH THÔNG LUẬN BỘ, THẾ GIAN TRÍ, KHIÊM NHƯỜNG, TÀM QUÝ, KIÊN TRÌ VÀ KHẢ NĂNG ĐẢNH LỄ NHƯ LAI”.10
2- VÔ CẤU ĐỊA (VIMALA BHUMI)
Một vị Bồ-tát sau khi thực hành địa thứ nhất, muốn chứng đạt địa thứ hai thì cần phải tu tập thêm giới thanh tịnh.

Kinh dạy có hai thứ thanh tịnh: THANH TỊNH PHÁT KHỞI VÀ THANH THỊNH TỰ THỂ.
-THANH TỊNH PHÁT KHỞI là:
“Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ nhất, muốn được Địa thứ hai thì phải sinh ra mười Trực tâm.
Những gì là mười?
1. Tâm CHÁNH TRỰC,
2. Tâm MỀM DỊU,
3. Tâm THUẬN HỢP,
4. Tâm CHẲNG PHÓNG DẬT,
5. Tâm TỊCH DIỆT,
6. Tâm CHÂN THẬT,
7. Tâm CHẲNG XEN TẠP,
8. Tâm KHÔNG THAM TIẾC,
9. Tâm THẮNG,
10. Tâm LỚN”.11
Ở đây vì “giới” thanh tịnh cho nên thành tựu được “giới tánh” của tâm chánh trực.
Từ đó tùy theo nơi tạo tác mà có chín loại tâm chánh trực khác nhau.
Bồ-tát khi thanh tịnh mười thiện nghiệp thì nghĩ rằng mọi chúng sanh đau khổ vì không tránh được mười nghiệp bất thiện.
--
***THANH TỊNH TỰ THỂ được chia làm ba:
- Giới thanh tịnh do xa lìa, tức là xa lìa mười đạo nghiệp bất thiện “sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ…”.12
Mười con đường bất thiện này đưa đến khổ lớn.
Bồ-tát lìa bỏ và dạy chúng sanh phải lìa bỏ chúng.
- Giới thanh tịnh do giữ pháp thiện.
Ở đây Bồ-tát tu tập tất cả pháp thiện ấy, thành tựu pháp thiện ấy mà chỉ dạy cho chúng sinh, và Bồ-tát đã xa lìa không còn nhân điên đảo.
- Giới thanh tịnh do đem lại lợi ích cho chúng sinh, tức là giới phát triển dựa nơi tâm đại bi làm lợi ích cho chúng sinh, gồm có 5 thứ:
“TRÍ, NGUYỆN, TU HÀNH, TÍCH TẬP, TÍCH TẬP QUẢ”.13
--
3- PHÁT QUANG ĐỊA (PRABHAKARI BHUMI)
“Những Đại Bồ-tát thanh tịnh Địa thứ hai rồi, muốn được ĐỊA THỨ BA thì phải dùng mười thâm tâm.
Những gì là mười?
1. Tâm tịnh,
2. Tâm dũng mãnh,
3. Tâm chán,
4. Tâm ly dục,
5. Tâm không thoát,
6. Tâm bền vững,
7. Tâm minh tịnh,
8. Tâm không đủ,
9. Tâm thắng, 10. Tâm lớn.
Bồ-tát do mười tâm đó mà được vào Địa thứ ba. Bồ-tát trụ ở sáng suốt có thể quan sát tất cả pháp hữu vi đúng như thật tướng.
Đó là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, hư hoại, chẳng lâu, chẳng thể tin tưởng, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng từ đời trước đến, chẳng đi về đời sau, chẳng trụ ở hiện tại”.14
Một vị Bồ-tát sau khi thành tựu địa thứ hai thì hướng mười tâm niệm sâu xa hơn để đi vào địa thứ ba.
Bồ-tát chứng được: sự vật là vô thường, khổ đau, sinh diệt trong từng sát-na, từ vô thủy đến vô chung đều bị vô minh chi phối.

Bồ-tát tu tập bốn vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả), chứng các thắng tri (tương đồng với các chứng đắc ở Tứ thiền, chẳng hạn như:
“THẦN TÚC THÔNG, THIÊN NHĨ THÔNG, THA TÂM THÔNG, TÚC MẠNG THÔNG, THIÊN NHÃN THÔNG”.15
Trong bốn nhiếp pháp, vị này hết sức thực hành pháp “lợi hành”;
Trong mười ba-la-mật vị này tu hạnh “nhẫn nhục ba-la-mật”.
Hành giả đoạn trừ tâm tham, sân, si;
Thực hành nhẫn nhục, không trạo cử, không thích thú, không chán nản, không tham lợi những việc mình làm, không lừa dối, không bí mật che giấu.
4- DIỆM HUỆ ĐỊA (ARCISMATI BHUMI)
“Những Đại Bồ-tát tịnh Địa thứ ba rồi, muốn được Địa thứ tư phải dùng mười pháp môn.
Những gì là mười?
1. Quan sát chúng sinh giới,
2. Quan sát pháp giới,
3. Quan sát thế giới,
4. Quan sát hư không giới,
5. Quan sát thức giới,
6. Quan sát Dục giới,
7. Quan sát Sắc giới,
8. Quan sát Vô sắc giới,
9. Quan sát Thắng tín giải giới,
10. Quan sát Đại tâm giới.
Bồ-tát nhờ mười pháp môn minh mà được vào Địa thứ tư”.16
==
Khi trụ địa này vị Bồ-tát được xem là vào nhà Như Lai, thành tựu mười pháp trí bên trong.
Kinh dạy:
“1. Tâm chẳng thoái chuyển,
2. Ở trong Tam bảo được lòng chẳng mất, sự thanh tịnh rốt ráo,
3. Tu tập quán sinh diệt,
4. Tu tập các pháp xưa nay chẳng sinh,
5. Thường tu tập sự thành hoại của thế gian,
6. Tu tập nghiệp nhân duyên nên có sinh,
7. Tu tập phân biệt sự sai khác của môn sinh tử Niết-bàn,
8. Tu tập nghiệp chúng sinh chẳng diệt,
9. Tu tập đời trước, đời sau sai biệt,
10. Tu tập hiện tại thường tiêu diệt chẳng trụ”.
17 Vị Bồ-tát này thực hành bốn nhiếp pháp cố gắng tạo nhiều công đức hơn nữa, không làm các ác hạnh, thực hành các thần túc, “NĂM CĂN, NĂM LỰC, BẢY GIÁC CHI, TÁM THÁNH ĐẠO”;18
-thực hành “Đồng sự nhiếp” trong bốn nhiếp pháp, tinh tấn nhiều hơn, phát triển sâu rộng hơn các địa trước.

Bồ-tát thường thực hành hạnh “tinh tấn ba-la-mật” mà thành tựu được đạo quả.
5- CỰC NAN THẮNG ĐỊA (SUDURJAYA BHUMI)
Khi từ địa thứ tư lên địa thứ năm Bồ-tát tu tập thanh tịnh bình đẳng tâm nguyện.
Kinh dạy:
“Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ tư, muốn được Địa thứ năm thì phải dùng mười tâm bình đẳng.
Những gì là MƯỜI TÂM BÌNH ĐẲNG?
1. Pháp Phật quá khứ,
2. Pháp Phật vị lai,
3. Pháp Phật hiện tại,
4. Giới tịnh,
5. Tâm tịnh,
6. Trừ kiến nghi hối tịnh,
7. Đạo phi đạo tịnh,
8. Hành trí kiến tịnh,
9. Các pháp Bồ-đề phần chuyển thắng tịnh,
10. Giáo hóa chúng sinh tịnh.

Bồ-tát nhờ mười tâm bình đẳng đó mà được vào Địa thứ năm.
Bồ-tát trụ ở địa Nan thắng thì khéo tu pháp Bồ-đề, thâm tâm thanh tịnh, cầu chuyển thắng đạo thì có thể đắc được Phật quả”.19
Ở địa này, Bồ-tát liên tục thực hành các trợ pháp khác, một pháp thanh tịnh chứng đắc thì tất cả pháp cũng được chứng đắc.
Bồ-tát thực hành thấu rõ pháp Tứ đế qua thiền định ba-la-mật, hiểu rõ pháp hữu vi là vô ngã không có thật.
Nhờ vào thanh tịnh trí, Bồ-tát ở địa này không bị hoang mang, làm cho mình và chúng sinh đều được hoan hỷ.

Bồ-tát ở địa vị này thành tựu do thực hành Tứ nhiếp pháp và thiền định ba-la-mật.20
6- HIỆN TIỀN ĐỊA (ABHIMUKHI BHUMI)
“Đại Bồ-tát đã đủ năm Địa, muốn vào Địa thứ sáu, phải dùng MƯỜI PHÁP BÌNH ĐẲNG.
Những gì là mười?
1. Do vô tánh nên tất cả pháp bình đẳng,
2. Do vô tướng nên tất cả pháp bình đẳng,
3. Do vô sinh nên tất cả pháp bình đẳng,
4. Do vô diệt nên tất cả pháp bình đẳng,
5. Do xưa nay thanh tịnh nên tất cả pháp bình đẳng,
6. Do không hý luận nên tất cả pháp bình đẳng,
7. Do chẳng lấy chẳng bỏ nên tất cả pháp bình đẳng,
8. Do xa lìa nên tất cả pháp bình đẳng,
9. Do như huyễn, mộng, bóng dáng, tiếng vang, trăng trong nước nên tất cả pháp bình đẳng,
10. Do có không chẳng phải hai nên tất cả pháp bình đẳng.
Bồ-tát do mười pháp bình đẳng này mà được vào Địa thứ sáu”.21
Địa thứ sáu này lấy “trí tuệ ba-la-mật” làm pháp môn hành trì, vì nặng lòng yêu thương với tất cả chúng sinh nên Bồ-tát nỗ lực hành trì đưa đến chứng ngộ tự tánh các pháp (không tánh).

Chúng sinh đau khổ là do vô minh, bởi vô minh nên có hành, từ hành phát sinh thức, câu hữu với bốn thủ uẩn từ ấy danh sắc được sinh ra và dẫn dắt chúng sanh đến khổ uẩn
: “Do tâm hữu lậu, hữu thủ nên sinh ra thân sinh tử.
Nghĩa là, nghiệp chính là đất, thức là hạt giống, vô minh che lấp, nước ái thấm nhuần, tâm ngã tưới đủ thứ các tà kiến, khiến cho tăng trưởng sinh ra mầm danh sắc.
Nhân danh sắc nên sinh ra các căn.
Các căn hợp lại nên có xúc.
Từ xúc sinh ra thọ.
Do thọ nên sinh ra ái.
Ái tăng trưởng nên có thủ.
Thủ làm nhân duyên nên có hữu.
Từ hữu sinh ra thân năm ấm gọi là sinh.
Năm ấm suy tàn gọi là già.
Năm ấm diệt gọi là chết.
Do nhân duyên già chết mà có ưu bi, khổ não, các sự khổ tụ tập.
Đó là mười hai nhân duyên”.22
Bồ-tát hiểu rằng chúng sinh đau khổ là do họ tự tạo chứ không ai gây tạo cho họ.
Với cái thấy đó, Bồ-tát biết được tam giới đều là do “thức” biến hiện.
Ở địa này Bồ-tát đã thoát khỏi vọng tưởng về “thiền, đối tượng của thiền, giải thoát, lực, thắng trí, phiền não và khổ đau”.23

7- VIỄN HÀNH ĐỊA (DURANGAMA BHUMI)
Khi thành tựu các công đức trí tuệ của Bồ-tát đạo, hành giả bắt đầu bước vào con đường mới cao thượng hơn, tức là mười phương tiện diệu hạnh, bao gồm:
“1. Khéo tu Không, Vô tướng, Vô nguyện mà vận dụng lòng từ bi,
2. Ở trong chúng sinh theo pháp bình đẳng của chư Phật mà chẳng bỏ sự cúng dường chư Phật,
3. Thường ưa tư duy cửa không mà tu tập phước đức tư lương,
4. Xa lìa ba cõi mà trang nghiêm cho ba đời,
5. Rốt ráo tịch diệt các lửa phiền não, nhưng vì chúng sinh phát sinh pháp diệt lửa phiền não tham, sân, si,
6. Thuận theo các pháp như huyễn, như mộng, như trăng trong nước chẳng hai tướng mà phát sinh phân biệt đủ các loại phiền não và chẳng mất quả báo của nghiệp,
7. Biết tất cả nước Phật rỗng không như hư không đều là tướng ly mà phát sinh hạnh làm tịnh Phật quốc,
8. Biết tất cả Pháp thân Phật không có thân mà phát sinh sắc thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm,
9. Biết âm thanh chư Phật chẳng thể nói, tướng tịch diệt mà tùy theo tất cả phát sinh đủ chủng loại âm thanh trang nghiêm,
10. Biết hết chư Phật, ở trong một niệm, thông đạt cả ba đời mà biết tất cả tướng, các thứ thời, các thứ kiếp được Vô thượng Bồ-đề, tùy theo sự tin hiểu của chúng sinh mà nói như vậy.
Đây gọi là tuệ từ phương tiện phát sinh MƯỜI DIỆU HẠNH”.24
Ở địa này Bồ-tát thành tựu mọi ba-la-mật, bốn nhiếp pháp, tứ đức xứ và 37 phẩm bồ-đề phần, thành tựu thân, khẩu nghiệp thanh tịnh v.v.
Mọi thành tựu đó là do thực hành phương tiện thiện xảo của pháp ba-la-mật mà được thành tựu.
8- BẤT ĐỘNG ĐỊA (ACALA BHUMI)
Sau khi thành tựu bảy địa, Bồ-tát làm cho đạo thanh tịnh, chất chứa nhiều công đức, phát vô số đại nguyện, an trú vào bốn gia trì lực.
Bồ-tát hiểu được mọi pháp là bất sinh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, tự tánh không thật có, chủng thủ bổn mạt đều giống nhau. Bồ-tát vượt qua mọi biến kế sở chấp do tâm và thức tạo, an trú vào “Vô sinh pháp nhẫn”25.

Kinh viết:
“Các pháp xưa nay không sinh, không khởi, không tướng, không thành, không hoại, không đến, không đi, không đầu, không giữa, không cuối;
vào trí của Như Lai.
Tất cả tâm, ý, thức, nhớ tưởng, phân biệt không chỗ tham trước, tất cả các pháp như tánh hư không.
Đó gọi là Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn, vào Địa thứ tám.
Vào ĐỊA BẤT ĐỘNG thì gọi là Bồ-tát thâm hạnh.
Tất cả thế gian chẳng thể đo lường được hạnh đó.
Nó lìa tất cả các tướng, lìa tất cả các tưởng, tất cả tham trước”.26
Vị Bồ-tát ở địa này biết được khi nào thế giới này hình thành và hủy hoại, biết được từng chi tiết lớn, nhỏ của tứ đại của tất cả các loài chúng sinh và nghiệp quả của chúng:
“Tại đạo Bồ-tát, tư duy thế lực trí tuệ của chư Phật mà biết thế giới sinh, thế giới diệt, thế giới thành, thế giới hoại.
Biết do nhân duyên nghiệp gì gom lại nên thế giới thành, biết do nhân duyên nghiệp gì diệt nên thế giới hoại.
Bồ-tát đó biết tánh đất, nước, lửa, gió, tướng nhỏ, tướng vừa, tướng vô lượng, tướng khác nhau, tướng vi trần nhỏ, biết tướng khác nhau của vi trần.
Sự sai khác của vi trần có trong một thế giới, Bồ-tát đều có thể biết hết.
Biết bảo vật nhiều như ngần ấy vi trần, thân chúng sinh nhiều như ngần ấy vi trần, biết sự sai biệt về vi trần của vạn vật trong thế giới.
Phân biệt chúng sinh thân lớn thân nhỏ do bao nhiêu vi trần thành, thân địa ngục, thân ngạ quỷ, thân súc sinh do bao nhiêu vi trần thành, thân A-tu-la, thân trời do bao nhiêu vi trần thành…
Bồ-tát đều biết rõ hết”.27
Bên cạnh đó, Bồ-tát phát triển 10 TỰ TẠI (TUỔI THỌ, TÂM TRÍ, TÀI VẬT, NGHIỆP, SINH, GIẢI THOÁT, NGUYỆN, THẦN THÔNG, PHÁP VÀ TRÍ).
Bồ-tát ở địa này chứng được vô lượng, vô biên, vô tỷ trí tuệ.
Hạnh nghiệp bao giờ cũng trong sạch, do vậy nên gọi địa này là “Bất động”.
Bồ-tát này không thể thoái lui nữa và trở thành một đơn vị của nhà Như Lai, gia tộc Đức Phật, luôn luôn được chư Thiên, Kim Cang thần cận hầu hạ.
9- THIỆN TUỆ ĐỊA (SADHUMATI BHUMI)
Sau khi thành tựu và phát triển vô lượng trí, tổng trì, thiền định, thượng trí, hiểu biết chi li về thế giới và các vô sở úy của chư Đức Phật, Bồ-tát biết đúng đắn về pháp thiện, bất thiện, vô ký, thanh tịnh hay không thanh tịnh, thế tục hay siêu việt, tưởng hay không tưởng, định pháp hay bất định pháp, hữu vi hay vô vi v.v.
Bấy giờ Bồ-tát đạt đến địa thứ chín, gần với ngôi vị Phật. Bồ-tát được TAM MUỘI LY CẤU:

“Lại nữa, họ còn vào được các Tam muội Nhập pháp giới sai biệt, Tam muội Trang nghiêm đạo tràng, Tam muội Vũ nhất thiết thế gian hoa quan, Tam muội Hải tạng, Tam muội Hải ấn, Tam muội Hư không quản, Tam muội Quán sát nhất thiết pháp tánh, Tam muội Tùy nhất thiết chúng sinh tâm hành, Tam muội Như thật tri nhất thiết pháp, Tam muội Đắc Như Lai trí tín… Trăm vạn a-tăng-kỳ Tam muội như vậy đều hiện ra”.28
Ở địa này Bồ-tát vẫn tu tập trên con đường tiến triển tâm linh, lấy hạnh “Lực ba-la-mật” hóa độ tất cả chúng sinh.

10- PHÁP VÂN ĐỊA (DHARMAMEGHA BHUMI)
Khi biết rõ sự sinh diệt của các pháp, có thể làm vô lượng công hạnh khó làm, thêm lớn vô lượng trí huệ công đức, chứng nhập trí tuệ quảng đại của chư Phật, được trăm ngàn đại tam muội, Bồ-tát trở thành Đức Như Lai đầy đủ “Nhất thiết trí”:
“Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân thì biết đúng như thật.
Sự tập khởi của Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, biết đúng như thật.

Thế gian tánh, chúng sinh tánh, thức tánh, hữu vi tánh, vô vi tánh, hư không tánh, pháp tánh, Niết-bàn tánh, tà kiến chư phiền não tánh, biết đúng như thật.
Sự tập khởi của các pháp thế gian thành hoại, Thanh văn đạo, Bích chi Phật đạo, BỒ-TÁT ĐẠO, MƯỜI LỰC, BỐN ĐIỀU KHÔNG SỢ, MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘNG, SẮC THÂN, PHÁP THÂN CỦA CHƯ PHẬT, NHẤT THIẾT TRÍ, ĐẮC PHẬT ĐẠO CHUYỂN PHÁP LUÂN, THỊ HIỆN DIỆT ĐỘ TẬP…
Nói tóm lại, Bồ-tát đó biết đúng như sự thật vì tập khởi mà có tất cả pháp sai biệt”.29
Bồ-tát điêu luyện trong vô số thiền định, nhờ vậy mà một đóa sen huy hoàng to lớn hiện ra.

Bồ-tát thấy mình ngồi trên đài sen ấy với hào quang chói sáng và nhập nhất thể trí tri, xung quanh có vô số Bồ-tát, các vị ở trong chín địa trước bao quanh và hướng nhìn mình.
Khi Bồ-tát ngồi trên hoa sen, hào quang từ các Đức Như Lai chiếu đến tấn phong vị Bồ-tát này thành Chánh đẳng giác (Samyaksambudha).
Vì đầy đủ nhất thiết trí như vậy nên địa này gọi là Quán đảnh địa (Abhisekabhumi).
KẾT LUẬN
Vì phát đại nguyện sâu rộng, nguyện kết thiện duyên với hết thảy Phật pháp, tu tập đầy đủ 37 phẩm Bồ-đề, cùng với “mười nguyện bất khả tận”, nên Bồ-tát an trụ vào địa thứ nhất (HOAN HỶ ĐỊA).
Nhờ nghiêm trì tịnh giới, tinh tấn hành đạo, trừ tâm cấu uế, phát sanh “mười tâm thù thắng”, Bồ-tát an trụ địa thứ hai (LY CẤU ĐỊA).
Nhờ nguyện chuyển tiếp tăng trưởng, thấy được minh pháp, sự thực hành viên mãn “mười tâm vi diệu”, Bồ-tát an trụ vào địa thứ ba (PHÁT QUANG ĐỊA).
Do phát nguyện lực sâu rộng, đủ công năng thể nhập vào đạo, vận dụng nhu nhuyến “mười loại pháp minh” và đắc “mười chủng trí” nên Bồ-tát an trụ vào địa thứ tư (DIỆM HUỆ ĐỊA).
Nhờ tùy vào Chánh pháp mà thuận hành theo pháp thế gian, vận dụng nhu nhuyến “mười tâm bình đẳng”, Bồ-tát an trụ vào địa thứ năm (NAN THẮNG ĐỊA).
Nhập vào pháp môn sâu xa, với sự vận dụng nhu nhuyến “mười pháp bình đẳng và quán chiếu 12 nhân duyên”, Bồ-tát an trụ vào địa thứ sáu (HIỆN TIỀN ĐỊA).
Sinh khởi hết thảy pháp Phật, vận dụng “tuệ phương tiện để khởi mười diệu hạnh”, Bồ-tát an trụ trong địa thứ bảy (VIỄN HÀNH ĐỊA).
Bồ-tát khi thể nhập vào địa này thì có được các trí tuệ sâu rộng, chứng đắc đạo quả;
Và nhờ năng lực thiền định sâu xa kiên cố, trong mỗi niệm đều tinh tấn hành Thập độ ba-la-mật, Tứ nhiếp pháp, 37 phẩm Bồ-đề, Tam giải thoát môn.
Cho nên Bồ-tát đắc được mười pháp tự tại.
Khi ấy thì đệ BÁT ĐỊA (BẤT ĐỘNG ĐỊA) tự nhiên được thành tựu.

Tới đây tâm Bồ-tát không còn bị thoái lui, chỉ còn công hạnh đầy đủ hướng đến QUẢ VỊ PHẬT, (tức THẬP ĐỊA).
Đây là lộ trình tu tập của một hành giả theo Đại thừa Phật giáo, đưa chúng sinh từ địa vị phàm phu hướng đến Phật quả giải thoát.

-Tác giả: THÍCH NỮ DIỆU HƯƠNG
-Nguồn: Báo Giác Ngộ
giacngo.vn


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

QUÁCH THẦN LƯỢNG VÀ BÀI KỆ KINH HOA NGHIÊM CỨU THOÁT KHỎI CẢNH KHỔ

Vào giữa tháng tư niên hiệu Thùy Củng thứ ba (687), ngài Pháp Tạng Hoa Nghiêm giảng KINH HOA NGHIÊM tại chùa Đại Từ Ân[10].
Lúc ấy, sư Đàm Diễn, một vị tăng ở cùng chùa, mở pháp hội vô già[11] để tán thán công đức của pháp sư.
Về sau, ngài Pháp Tạng đến chùa Sùng Phúc[12], lần lượt yết kiến hai đại đức luật sư Đạo Thành và Bạc Trần. Lúc đó, luật sư Bạc Trần nói với ngài Pháp Tạng:
- Mùa hạ này, có đàn việt Quách Thần Lượng ở phường Hiền An đã chết bảy ngày mà sống lại, vào chùa lễ Phật.
Gặp tôi, ông ấy nói: “Bỗng nhiên tôi chết giấc, rồi trong khoảnh khắc thì sống lại. Khi ấy, có ba người sứ giả đưa tôi đến chỗ vua Bình Đẳng.
Sau khi hỏi về tội-phúc, đến lúc chịu tội, vua giao tôi cho sứ giả dẫn đến địa ngục.
Sắp vào ngục, tôi bỗng gặp một vị tăng.
Vị ấy nói: ‘Tôi muốn dạy ông đọc một bài kệ để cứu ông thoát khỏi cảnh khổ ở địa ngục’.
Khi ấy, quá sợ hãi, tôi xin vị tăng cứu giúp, mau ban cho bài kệ.

Vị tăng đọc bài kệ:

"Nếu người muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Nên quán sát như vầy
Như Lai do tâm tạo."


Nghe vậy, tôi nhất tâm đọc bài kệ này mấy lần.
Nhờ bài kệ này, tôi và mấy nghìn vạn người cùng chịu tội đều được thoát khổ, khỏi bị rơi vào địa ngục”.

Câu chuyện ấy là do đàn việt kể lại. Nên biết, bài kệ này có công năng giúp người thoát khỏi cảnh khổ ở địa ngục, thật không thể nghĩ bàn.
Ngài Pháp Tạng nói với luật sư Bạc Trần:
- Bài kệ đó chính là bài kệ trong hội thứ tư, kinh Hoa nghiêm."

Lúc đầu, luật sư Bạc Trần chưa nhớ đến kinh Hoa Nghiêm, cũng chưa hoàn toàn tin lời ngài Pháp Tạng, mới tìm đọc phẩm Thập hạnh thì đúng là bài kệ cuối cùng trong các bài kệ của phẩm Thập Hạnh.

(Nhưng theo bản tân dịch thì bài kệ này nằm trong phẩm 20 :” DẠ MA CUNG KỆ TÁN”, kinh Hoa Nghiêm, dòng thơ kệ thứ 365)

Luật sư Bạc Trần khen:
- Vừa nghe một bài kệ mà cả nghìn vạn người đồng loạt đều được thoát khổ.
Huống là thọ trì trọn bộ, giảng nói thông suốt nghĩa lí sâu xa của bộ kinh này ư?
-----
Trích sách“Những truyện cảm ứng về kinh Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm”
-Biên Soạn: Cư Sĩ Hồ U Trinh Ở Núi Tứ Minh
-Việt Dịch: Chúc Giải-Huệ Hạnh-Diệu Tuyền
Hiệu Đính: Định Huệ -
Biên tập: Thích Quảng An


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

NHỚ ĐƯỢC MỘT BÀI KỆ TRONG KINH HOA NGHIÊM THÌ DIỆU DỤNG VÔ LƯỢNG.
- HT. TUYÊN HÓA giảng
-Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
Trích từ sách KINH HOA NGHIÊM đại phương quảng Phật– giảng giải
--
Bộ Kinh Hoa Nghiêm này là pháp đại thừa, vì pháp thân Bồ Tát mà nói, hoàn toàn là tu bồ đề tâm, hành bồ đề đạo,
Do đó người tiểu thừa, tuy nhiên đồng ở trong pháp hội, nhưng như điếc như mù,
“Có mắt chẳng thấy được Lô Xá Na,
có tai chẳng nghe được pháp viên đốn”.
Vì khi họ ở tại nhân gian thì không tu pháp đại thừa,
Cho nên không có duyên đắc được lợi ích lớn.
Vậy tức nhiên chúng ta chẳng phải là Bồ Tát, lại chẳng phải là A La Hán.
Tại sao lại nghe được tên Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, mà còn được nghe diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm?
*
Ðó là vì trong quá khứ chúng ta đã gieo căn lành với pháp đại thừa.
Cho nên hôm nay có duyên được đến nghe pháp, bằng không cũng giống như người tiểu thừa, như điếc như mù.
-Ðây là cơ hội ngàn kiếp khó gặp.
Hy vọng mọi người tinh tấn càng tinh tấn, nỗ lực càng nỗ lực, đến nghiên cứu diệu lý của bộ Kinh này.
Tuy nhiên chỉ dịch ra được bốn vạn năm nghìn bài kệ.
Nhưng nếu nhớ được một bài kệ thì có diệu dụng vô lượng.
--
***Vào đời Đường, có vị xuất gia tên là VƯƠNG MINH CÁN.
Vị đó tuy xuất gia làm hoà thượng, nhưng không tu hành.
Một ngày nọ, bị quỷ vô thường bắt đi.
Vị đó gặp Bồ Tát Ðịa Tạng.
Ngài Địa Tạng dạy vị đó một bài kệ trong KINH HOA NGHIÊM :
“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”.
-Nghĩa là :
"Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Hết thảy do tâm tạo”.
-
Vị đó thấy vua Diêm Vương thì đọc ra bài kệ này.
Do đó được phóng thích.
Bài kệ này không những cứu được sinh mạng của vị đó, mà cũng cứu được nhiều chúng sinh thọ khổ dưới địa ngục.
Các bạn thấy đó!
Bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm này có diệu dụng như thế.
Cho nên ta phải tụng Kinh Hoa Nghiêm, phải lạy Kinh Hoa Nghiêm, phải ấn tống Kinh Hoa Nghiêm, thì nhất định có CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG.”
Hình ảnh


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Hình ảnh

Prayer To Remove Obstacles & Praying Blessings.


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Thần chú Tỳ Lô Giá Na (VAIROCANA BUDDHA MANTRA):

“Om, Amogha, Vairocana, Mahamudra. Manipadma. Jvala. Pravarttaya. Hum.” (108 times)
-------


“NAMO VAIROCANA BUDDHA, the Lord of the AKANISTHA world.”
( Nam Mô Tỳ Lô Giá Na Phật, giáo chủ của Thế giới Hoa Tạng)
(3 times)
------

* I vow to rebirth in Sukhavati
( Tôi nguyện vãng sanh cõi Cực Lạc).
---

*** I generate BODHICITTA & practise The WAY of the BODHISATTVA.
(Bodhisattva Precepts)
( Tôi phát bồ đề tâm và hành bồ tát đạo: Bồ tát giới)


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

Hình ảnh

“Thà thọ khổ địa-ngục
Được nghe hồng-danh Phật
Chẳng thích vô-lượng vui
Mà chẳng nghe danh Phật.
--
Sở-dĩ nơi thời xưa
Chịu khổ vô-số kiếp
Lưu chuyển trong sanh-tử
Vì chẳng nghe danh Phật.
==
~*KINH HOA NGHIÊM

PHẨM 14: TU DI SƠN ĐẢNH KỆ TÁN


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THÍCH TRÍ NGHIỄM
Thích Trí Nghiễm (602-668) ở chùa Chí Tướng, núi Chung Nam, sống vào đời Đường (618-907):
Sư họ Triệu, người Thiên Thủy.
Ông cố của Sư tên Hoằng, là người luôn giữ vững khí tiết trong sáng.
Cha tên là Cảnh, nhậm chức Lục sự tham quân ở Thân châu.
Một hôm, mẹ Sư mộng thấy có một vị tăng Ấn Độ cầm tích trượng đến bảo rằng: “Hãy mau nghiêm trì trai giới, thanh tịnh thân tâm”.
Người mẹ giật mình tỉnh giấc, nghe có mùi thơm lạ, từ đó bắt đầu thọ thai, rồi sanh ra Sư.
Được vài tuổi, Sư đã tài trí hơn hẳn những đứa trẻ bình thường.
Sư thường chất đá thành tháp, hoặc kết hoa thành bảo cái, hoặc bảo bạn bè làm thính chúng, còn mình làm Pháp sư. Trí tuệ này đã sẵn có từ nhiều đời.
Năm 12 tuổi, thần tăng Đỗ Thuận không biết vì sao lại đến nhà, vỗ đầu Sư, rồi nói với người cha: “Đây là con ta, hãy trả lại cho ta”.
Nghe nói vậy, biết là bậc chân tu, nên cha mẹ vui vẻ thuận cho.
Ngài Đỗ Thuận liền giao Sư cho pháp sư Đạt, bậc Thượng thủ trong hàng đệ tử dạy dỗ. Sư sớm tối xem đọc, chưa từng hỏi lại.
Sau đó, có 2 vị tăng Ấn Độ đến chùa Chí Tướng, nhìn thấy vẻ thanh thoát phi thường của Sư, nên trao cho bản kinh tiếng Phạn.
Chưa đầy một ngày, Sư đã thuộc lòng. Vị Tăng Ấn Độ nói với chúng tăng: “Đứa trẻ này mai sau sẽ là bậc thầy lỗi lạc trong Phật pháp”.
Vừa lên 14 tuổi, Sư xuất gia. Bấy giờ, nhà Tùy sắp diệt, người dân đói rét, tuy còn nhỏ, nhưng Sư ý chí rất mạnh mẽ.
Sau học luận Nhiếp Đại Thừa nơi pháp sư Pháp Thường[121], chưa đầy vài năm, Sư đã hiểu rõ ngôn từ, tinh thông nghĩa lý.
Có lần, nhân lúc các bậc Long tượng vân tập, ngài Pháp Thường bảo Sư thụ nghĩa.
Lúc đó, pháp sư Tăng Biện[122] là người uyên thâm giáo pháp, muốn xem thần khí của Sư, nên đích thân tra xét, gạn hỏi nhiều lần, Sư đều đáp với ngôn từ và nghĩa lý vô cùng sâu sắc, nên mọi người đều khen huệ giải của Sư cao vút như các bậc tiên triết.
Sau khi thọ giới Cụ túc, Sư học luật Tứ Phần, Ca-chiên-diên, Tỳ-đàm, Thành Thật, Thập Địa, Địa Trì, Niết-bàn…
Thời gian sau, Sư đến pháp sư Tĩnh Lâm, chuyên tâm học tất cả các các kinh luận, tìm tòi những điểm sâu kín, nghiên cứu yếu chỉ vi diệu; người bấy giờ đều khen Sư đã đạt ý kinh.
Tuy nhiên, Sư cho rằng: “Pháp môn thì vô lượng, biển trí thật rộng sâu, chưa biết lấy gì làm kim chỉ nam”.
Sư bèn đến trước Tạng kinh, lễ bái và tự lập nguyện, rồi thuận tay lấy một quyển kinh, thì được kinh Hoa Nghiêm quyển 1.
Thế rồi, Sư đến chỗ pháp sư Trí Chính chùa Chí Tướng, nghe giảng và nghiên cứu kinh này.
Tuy đã xem qua các bản xưa, Sư vẫn thường lưu tâm đến các chỉ thú mới lạ. Trải qua nhiều gian khó, nhưng vẫn chưa trừ được mối nghi, Sư liền xem khắp Tạng kinh, nghiên cứu các bản chú thích; khi đọc đến văn sớ của luật sư Quang Thống, thì mới dần dần tỏ ngộ được chỉ thú mới lạ,
đó là “Vô tận duyên khởi[123] của Biệt giáo Nhất thừa[124]”. Sư vui mừng lãnh hội, tạm hiểu được nghĩa văn.
Sau đó, có vị tăng lạ đến bảo Sư:
“Ông muốn hiểu được giáo nghĩa Nhất thừa, thì nên nghiên cứu nghĩa Lục tướng viên dung[125] trong phẩm Thập Địa.
Thận trọng, chớ xem thường, nên nhiếp tâm tư duy trong vòng 1-2 tháng, sẽ tự lãnh hội”.
Nói xong, vị ấy bỗng biến mất, Sư kinh ngạc hồi lâu. Từ đó, Sư chuyên tâm nghiên cứu, chưa đầy một tháng, đã tỏ ngộ, liền lập giáo, phân tông, soạn Hoa Nghiêm Kinh Sớ. Lúc này, Sư mới 27 tuổi.
Lần nọ, sau khi đảnh lễ nhiễu Phật 7 đêm để cầu chỉ điểm đúng sai, Sư mộng thấy có một thần đồng đến khải thị ấn chứng. Từ đó, Sư lui về ẩn nơi hoang vắng, không đua chen với đời.
--
Về già, Sư mới ra hoằng truyền giáo pháp. Bấy giờ, Hoàng thái tử được phong làm Bái Vương, đích thân Sư làm giảng chủ;
Hoàng thái tử ban lệnh cho quan phủ nơi đây lo việc cung cấp tứ sự[126]; nhờ đó, bánh xe Chánh pháp mãi xoay chuyển.
Bởi thông thạo mọi việc, giỏi văn chương, lại có nhiều tài năng, nên Sư đã vẽ một bản đồ thế giới Liên Hoa Tạng, treo bên trái sông Thông, là việc hy hữu xưa nay.
Năm Tổng Chương thứ 1 (668), một hôm, Sư mộng thấy đài Bát-nhã của chùa Chí Tướng bỗng nhiên sụp đổ.
Huệ Hiểu, đệ tử của Sư, lại mộng thấy một tràng phang treo cao vút, viên bảo châu trên đầu tràng phang sáng chói như mặt trời, từ từ di chuyển vào Kinh đô rồi ngã nhào.
Thấy những điềm này, Sư biết mình sắp viên tịch, nên bảo đệ tử: “Thân huyễn của ta do duyên sanh, không có tự tánh.
Nay ta tạm về cõi Tịnh; sau này, ta đến thế giới Liên Hoa Tạng, các ông theo ta, cũng nên lập chí nguyện này”.
Thế rồi, vào đêm 29 tháng 10 năm ấy, thần sắc vẫn bình thường, Sư nằm theo thế cát tường, thị tịch tại chùa Thanh Tịnh, hưởng thọ 67 tuổi.
Đêm ấy, có người tu theo pháp môn Tịnh Độ, nghe giữa hư không có tiếng nhạc từ phương Tây vang đến, trong chốc lát lại trở về phương Tây, liền cho rằng, đây là điềm minh chứng việc vãng sanh của một bậc phước đức vẹn toàn. Sáng ra, vị ấy hỏi thăm, quả đúng như vậy.

Sư soạn hơn 20 bộ sớ và chú giải các kinh luận, câu cú ngắn gọn, cách giải thích sáng tỏ mới lạ, đạt được pháp môn, khai thông yếu chỉ.
Đệ tử của Sư là Hoài Tề, Hiền Thủ.
Vào khoảng năm Vĩnh Long (680), Quách Thần Lượng, người huyện Trường An, Ung Châu, phạm hạnh thanh tịnh, bỗng nhiên bị chết thình lình.
Chư thiên dẫn thần thức ông ta lên cung trời Đâu-suất, đảnh lễ Phật Di-lặc.
Khi ấy, có một Bồ-tát hỏi Lượng: “Sao ông không thọ trì kinh Hoa Nghiêm?” Lượng thưa: “Vì không có người giảng”.
Bồ-tát bảo: “Hiện có người đang giảng, sao nói là không?”
Sau đó, Lượng sống lại, trình bày đầy đủ sự việc với pháp sư Bạc Trần.

Từ đó mới biết, ngài Hiền Thủ đang giảng kinh Hoa Nghiêm, tinh thông giáo nghĩa sánh với bậc tiên triết.
Hoài Tế (còn gọi là Hoài Tề) thì rất thông minh, nhưng chưa lãnh hội ý chỉ sâu kín, đã sớm thị tịch.

Vào đời Đại Chu (690-705), hoàng đế Tắc Thiên[127] đã gieo giống Phật trong vô lượng kiếp, đáng được suy tôn ức triệu lần.

Đại Vân Thọ Ký[128], chuyển xe vàng đến dự; Hà đồ ứng lục[129], gióng trống ngọc mà lai lâm. Là thánh là thần, vận Lục thần thông[130] mà không cùng; chí thiện chí mỹ, dùng Thập thiện[131] hóa độ đến vô biên. Đại xá cho tù nhân, xót thương người có tội.

Hơn hẳn nhà Hạ, vượt xa nhà Ân. Thế là đắp Tương Thành[132] ở Phần Thủy[133], trải tuệ nhật khắp mọi nơi.

Vì vậy, Vũ Hậu khổ thân, dốc lòng hành trì Thập lực[134]; kính hiền trọng sĩ, quên mình thực hiện Tứ y[135].

Đúc tượng khắc kinh, rực sáng soi cửa khuyết[136]; thỉnh tăng dự hội, vân tập chốn cửu trùng[137]. Tuy nhà Hán, nhà Ngụy có thành cảm; nhà Lương, nhà Tề dốc lòng tin, so với đây cũng đâu đáng kể.
Bấy giờ, Vũ Hậu mở pháp tạng Hoa Nghiêm, mời danh tăng từ khắp chốn, thì ngày giờ tiếp nối, năm tháng không ngừng; còn tán tụng Phật đức, ca ngợi pháp ngôn, thì đàn sáo ngân vang, bút mực chồng chất.
Đêm mồng 7 tháng Giêng năm Vĩnh Xương thứ 1 (689), Vũ Hậu sắc lệnh cho chư tăng kiến lập đạo tràng Bát hội pháp tòa Hoa Nghiêm tại cửa Huyền Vũ, để xiển dương yếu chỉ nhiệm mầu của kinh Hoa Nghiêm;
Qua ngày mồng 8, hơn mấy ngàn Tăng tục cùng thiết lập trai hội.
Bấy giờ, có vị quan phụ trách việc cất giữ băng, nhặt được một tảng băng ngọc.
Trong đó, có 2 ngôi tháp cao hơn một thước, đầy đủ các tầng bậc, màu bạch ngân, trong sáng rõ ràng.
Khi ấy, Vũ Hậu bảo đem ra cho chư tăng xem, mọi người kinh ngạc, vui mừng đảnh lễ, đều cho là ân đức Hoàng đế cảm nên.
Thật là điềm lành hiếm có. Nhân đó, Vũ Hậu làm bài thơ Thính Hoa Nghiêm và lời tựa.
--
Lời tựa rằng:
Nhân lúc nhàn rỗi,
Nghe kinh Hoa Nghiêm.
Thấy biện tài ngang dọc
Xem dấu tích tượng long[138].
Đã giúp huân tập
Lại bặt mối nghi.
Nên bày tâm nguyện,
Ghi lại vài lời.
Bài từ như sau:
Giảng tòa Hoa Nghiêm khai,
Tăng chúng đầy pháp hội
Thánh nhân cũng vân tập
Thiên hoa rực bầu trời.
Tòa phân sen ngàn cánh
Hương tỏa khói nhẹ lan
Chuông vang thấu Hữu đảnh[139]
Phạm âm[140] vọng vô biên.
Một lời nêu diệu nghĩa
Thất xứ lại trùng tuyên
Duy tâm đạt Bát hội[141]
Ý lặng, chứng Tam thiền[142].
Ngộ pháp vô sanh diệt,
Thường vui Phật hiện tiền.
Vậy là,
Thế giới Liên Hoa
Dậy sóng cả nơi Hải ấn.
Cõi nước vi trần
Thâu vào lưới Nhân-đà-la[143].
Thánh thượng
Việc triều nhàn rỗi,
Thương xót triệu dân.
Chiếu Thất giác[144] khai ngộ kẻ mê,
Bày Tứ biện[145] cảnh răn người tối.
Phật đạo cao xa,
Vòi vọi vượt ngoài hoàn vũ.
Giáo nghĩa trác tuyệt,
Sừng sững thoát khỏi trần ai.
Một lời diễn nghĩa,
Thật là nghe điều chưa từng nghe.
Bảy xứ hoằng tuyên,
Quả là thấy điều chẳng từng thấy.
Bài tán Phu mã hoàng và bài thơ Dịch đăng hậu thông có thể sánh được sao?
] Pháp sư Đàm Vô Tối ở chùa Dung Giác, kinh đô Lạc Dương, sống vào đời Bắc Ngụy (386-534).
] Pháp sư Ý ở Bắc Đài, sống vào đời Ngụy (386-534) (soạn sớ, nhưng không rõ mấy quyển).
] Thiền sư Tăng Đạt ở chùa Hồng Cốc, núi Lâm Lư, sống vào đời Tề (550-577).
] Pháp sư Tăng ở chùa Tê Vụ, Nhiếp Sơn, sống vào đời Tề (550-577).
] Pháp sư Đàm Tuân ở Nghiệp Trung, sống vào đời Tề (550-577).
] Pháp sư Huệ Thuận ở chùa Tổng Trì, Nghiệp Hạ, sống vào đời Tề (550-577).
] Pháp sư Huyền Sướng ở chùa Tề Hưng, núi Tề Hậu, Thục quận, sống vào đời Tề (550-577).
] Pháp sư Đạo Bằng ở chùa Bảo Sơn, Nghiệp Tây, sống vào đời Tề (550-577).
] Pháp sư Thuyên ở chùa Chỉ Quán, Nhiếp Sơn, sống vào đời Trần (557-581).
] Pháp sư Pháp Lãng ở chùa Hưng Hoàng, kinh đô Lạc Dương, sống vào đời Trần (557-581).
] Pháp sư Huệ Tượng ở Đại Thiền Chúng tự, kinh đô Lạc Dương, sống vào đời Trần (557-581).
] Pháp sư An Lẫm ở chùa Kỳ Xà, Chung Sơn, sống vào đời Trần (557-581).
] Pháp sư Hồng Tuân ở Đại Hưng Thiện tự, Tây Kinh, sống vào đời Tùy (581-618) (soạn sớ 7 quyển).
] Pháp sư Đàm Thiên ở đạo tràng Thiền Định, Tây Kinh, sống vào đời Tùy (581-618) (soạn sớ phẩm Minh Nạn).
] Pháp sư Huệ Viễn ở chùa Tịnh Ảnh, Tây Kinh, sống vào đời Tùy (581-618) (soạn sớ 7 quyển, nhưng chưa hoàn thành, chưa thuyết giảng).
] Pháp sư Tĩnh Uyên ở đạo tràng Chí Tướng, núi Chung Nam, sống vào đời Tùy (581-618).
] Pháp sư Huệ Giác ở chùa Huệ Nhật, Giang Đô, sống vào đời Tùy (581-618).
] Pháp sư Cát Tạng ở chùa Diên Hưng, tại Kinh đô, sống vào đời Đường (618-907).
] Pháp sư Trí Cư ở chùa Kiến An, Thường Châu, sống vào đời Đường (618-907).
] Pháp sư Trí Chính ở chùa Chí Tướng, núi Chung Nam, sống vào đời Đường (618-907) (soạn sớ 10 quyển).
] Pháp sư Huệ Trì ở chùa Hoằng Đạo, Việt Châu, sống vào đời Đường (618-907).
] Pháp sư Huệ Trách ở chùa Thanh Thiền, tại Kinh đô, sống vào đời Đường (618-907).
] Pháp sư Huệ Tuyền ở chùa Quang Phước, Tương Châu, sống vào đời Đường (618-907).
] Pháp sư Quang Giác ở chùa Phổ Quang, tại Kinh đô, sống vào đời Đường (618-907) (soạn sớ 10 quyển).

Các vị Pháp sư trên rất uyên thâm kinh điển và đều hiểu rộng kinh Hoa Nghiêm, nhưng có vị khiêm hạ mà ẩn cư, hoặc có chí nhưng chưa thành.
Các vị này đã không chuyên về kinh Hoa Nghiêm, lại không có điềm lành ứng hiện, nên chỉ phụ ghi ở đây, ngõ hầu biết được những vị có tâm nguyện hoằng dương kinh này làm cho hương thơm còn mãi.

== TRUYỆN KÝ KINH HOA NGHIÊM
-Sa môn Pháp Tạng
Dịch và chú thích: Thiện Thuận- Quảng An-Viên Châu-Ngộ Bổn


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THÍCH PHỔ TẾ:

Sư THÍCH PHỔ TẾ người Bắc Sơn, Ung Châu[148].
Khi mới xuất gia, Sư y chỉ thiền sư Viên tu pháp khổ hạnh, ở một mình trong rừng vắng, không ngủ nhờ nhà người, ngồi kiết-già tu định.
Về già, Sư vẫn ở nơi hoang vắng hiểm trở, sống chung với cọp sói.
Tuy Sư có chí thoát trần thế, nhưng luôn nghiên cứu kinh điển, lại thường tụng kinh Hoa Nghiêm.
Cứ 2 ngày một biến, và lấy đây làm sự nghiệp.
Tiếng Sư tụng kinh ôn hòa, âm điệu hùng hồn, vang khắp.
Có lần, Sư dụng tâm quá sức, đến nỗi máu nôn ra mấy đấu[149], phải nghỉ tụng kinh, bỏ ăn uống suốt cả 3 ngày.
Thấy vậy, các vị đồng môn thương xót, mang đến các loại thuốc.
Nhưng Sư bảo:
“Kinh dạy:
Những bệnh mà thầy thuốc ở đời chữa trị, tuy có bớt nhưng cũng tái phát.
Còn những bệnh mà Như Lai chữa trị, khi khỏi rồi thì không bao giờ bệnh lại.
Vậy dùng thuốc làm gì?”
Nói xong, Sư tắm gội sạch sẽ, trang nghiêm hương hoa, đảnh lễ chư Phật khắp mười phương, lớn tiếng tụng kinh Hoa Nghiêm, bệnh liền bình phục.
Đến khi Phật pháp suy vi, Sư vào núi Thái Bạch[150]…, nhưng không mang theo thức ăn, đúng thời ăn rau rừng, uống nước suối mà không hề bệnh hoạn.
Sư phát nguyện, một khi Tượng giáo[151] hưng thịnh, sẽ xả thân cúng dường.
Từ đó, Sư tu theo hạnh Phổ Hiền[152] và nguyện sanh về cõi Hiền Thủ[153].
Đầu những năm Khai Hoàng ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣(581-600), Phật pháp lại hưng thịnh, tâm nguyện đã thành tựu, nên Sư thực hiện việc xả thân cúng dường.
Thế là, Sư tập hợp chúng tăng tại sườn núi phía Tây hang Khôi, phát đại thệ nguyện, rồi gieo mình xuống vực mà chết.
Đạo tục xa gần kéo đến, chật cả hang núi.
Sau đó, các đệ tử xây Bạch tháp trên đỉnh núi để cúng dường.
--
TRUYỆN KÝ KINH HOA NGHIÊM
-Sa môn Pháp Tạng
Dịch và chú thích: Thiện Thuận- Quảng An-Viên Châu-Ngộ Bổn


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THÍCH BIỆN TÀI:
Sư xuất gia từ thuở nhỏ, thờ pháp sư Dụ làm thầy.
Qua thời gian tham học giáo nghĩa, Sư cho kinh Hoa Nghiêm là rốt ráo, cùng tột nhất trong tất cả các kinh.
Vì vậy sư dốc lòng nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm, nhưng vẫn không đạt được yếu chỉ.
Buồn than cho nghiệp chướng sâu dày,
Sư chí thành phát lồ sám hối.
Đồng thời, để giữ kinh cho sạch sẽ, Sư tạo một hộp trầm hương, đặt kinh Hoa Nghiêm vào trong đó.
Rồi sư đội kinh Hoa Nghiêm trên đầu, kinh hành suốt 3 năm.
Một hôm, Sư mộng thấy bồ-tát Phổ Hiền đến trao cho yếu chỉ vi diệu.
Nhân đó, Sư đọc thông thuộc văn kinh, trước sau đều sáng tỏ.
Đã cảm được bậc Thánh thầm gia hộ,
Sư càng nỗ lực tu học, nên thấu triệt nghĩa lý.
Bấy giờ, Sư bắt đầu hoằng hóa, làm lợi ích chúng sanh.
Sau không biết Sư viên tịch ở đâu.
Lại có một vị tăng (không rõ họ tên) thấy điềm lành của Sư, liền khởi lòng tin sâu;
Do đó, vị sư này học theo hạnh đội kinh, đến núi Thanh Lương, trụ xứ của bồ-tát Văn-thù, chí thành cầu gia hộ.
Bấy giờ, vị tăng kinh hành và đảnh lễ.
Lúc nào cũng đội kinh trên đầu.
Tối đến, vị tăng để kinh lên một cái giá 3 chân, đốt hương đảnh lễ, ngồi kiết già bên dưới,
Quán xét tư duy những nghĩa sâu xa vi diệu.
Trải qua 17 năm, cũng có điềm lành ứng hiện như trước.
Hộp trầm hương đựng kinh ấy đến nay vẫn còn.
Cùng lúc ấy, tại sườn núi Bão Phúc, Phần châu, có sa-di Huệ Cầu cũng đầu đội kinh đi nhiễu quanh tháp, trải qua 3 năm, được bậc Thánh gia hộ.
Từ đó tinh thông cả văn nghĩa.
Vì vậy, người đương thời gọi tháp này là tháp Hoa Nghiêm.

==
TRUYỆN KÝ KINH HOA NGHIÊM
-Sa môn Pháp Tạng
Dịch và chú thích: Thiện Thuận- Quảng An-Viên Châu-Ngộ Bổn


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THÍCH ĐÀM NGHĨA:
Sư người Tinh Châu, sống vào đời Tùy (581-618),
Sư xuất gia từ thuở nhỏ, ở chùa Thập Lực, nghiêm trì giới luật và thay chúng làm những việc nặng nhọc.
Sư tu hạnh đầu-đà, thường ở trên núi Ngũ Đài, nguyện nương nơi bồ-tát Văn-thù sách tấn tu học Phật pháp.
Hằng ngày, Sư tụng 2 bộ kinh Pháp Hoa và một quyển kinh Hoa Nghiêm.
Tu nhân như thế trải qua nhiều năm.
Sau đó, Sư cùng với đệ tử là Đàm Huấn đi qua các đài, lễ lạy cúng dường.
Nhân đến Nam đài, Sư thấy một vị Tỳ-kheo-ni, không rõ họ tên, mặc áo vải, ăn rau rừng, dung mạo thanh nhã;
Khi đến nơi ở của vị này, thì thấy trống trãi, không có nhà cửa, chỉ thấy một tòa ngồi, bốn phía đều đóng cọc bằng gỗ, bện cỏ làm chiếu, kết trúc làm tòa, và ngồi kiết-già ở đó.
Sư bèn đến hỏi:
- Sư tu theo pháp môn nào?
Thưa:
- Chỉ tụng kinh HOA NGHIÊM.
Sư liền xin được nghe.
Tỳ-kheo-ni thưa:
- Tôi và Đại đức, tăng ni khác biệt. Hơn nữa, trời đã gần tối, Đại đức không nên ở đây, thỉnh Ngài đến phía Nam hang này, nghỉ lại trong một thất đá.
Sư đang do dự chưa đi. Tỳ-kheo-ni liền đứng dậy để tránh đi.
Sư nói:
- Vì muốn nghe kinh Hoa Nghiêm, nên tôi chần chừ chưa muốn đi.
Tỳ-kheo-ni thưa:
- Cứ đến nơi ấy nghỉ, vẫn nghe kinh được!
Sư bèn đến thất đá kia cách chỗ vị Ni khoảng 5-6 dặm, đốt hương cúng dường từ xa, liền nghe vị Ni tụng kinh Hoa Nghiêm,
Âm thanh rất rõ ràng, giống như ở bên cạnh.
Khi vị Ni mới tụng quyển 1, từ xa Sư thấy luồng ánh sáng phóng ra từ miệng vị Ni;
Sắp đến quyển 2, ánh sáng kia lan rộng ra;
Từ quyển 3 trở đi, ánh sáng tỏa khắp hang núi giống như ban ngày.
Từ xa Sư thấy hình dáng vị Ni giống như đang ở trước mặt.
Đến canh 5, mới tụng xong quyển 4 và 5, lại tụng tiếp quyển 6, thì ánh sáng kia dần dần thu lại.
Kinh vừa hết, ánh sáng cũng mất hẳn.
Sáng ra, Sư và các đệ tử mang hương hoa đến cúng dường, phát nguyện rộng lớn, đảnh lễ từ biệt rồi trở về.
Thời gian sau, Sư cùng các đệ tử trở lại tìm vị Ni ấy, nhưng không biết ở đâu.
Sau Sư cùng với đệ tử là Đàm Huấn đến chùa Thái Nguyên tại Kinh đô kể lại việc này cho pháp sư Hiền Thủ nghe.

==TRUYỆN KÝ KINH HOA NGHIÊM
-Sa môn Pháp Tạng
Dịch và chú thích: Thiện Thuận- Quảng An-Viên Châu-Ngộ Bổn


dammaythongdong
Bài viết: 464
Ngày: 26/03/20 05:12
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: TPHCM
Được cảm ơn: 4 time

Re: TÔN TƯ MẠC : « KINH HOA NGHIÊM LÀ KINH LỚN NHẤT. »

Bài viết chưa xem gửi bởi dammaythongdong »

THOÁT ĐẠI NẠN VÀ SỞ NGUYỆN THÀNH TỰU LÀ NHỜ NĂNG LỰC TRÌ KINH HOA NGHIÊM



Sư THÍCH PHỔ AN họ Quách, người Kinh Dương, Kinh Triệu.

Thuở nhỏ, Sư lễ thiền sư Viên cầu xuất gia.

Sau khi vào đạo, Sư giữ vững tiết tháo, xả bỏ việc đời, tính tình nhu hòa, nhẫn nại, không gây oán.

Sư thường thay chúng làm các việc nặng nhọc, nhận lãnh những điều khó khổ mà lòng vẫn vui vẻ, lại còn sợ không có việc để làm.

Khi lớn tuổi, Sư tham học nơi pháp sư Ái.

Thời gian sau, Sư THÍCH PHỔ AN đã tinh thông Tam tạng[161], nhưng thường tu tập theo kinh Hoa Nghiêm.
Sư đọc tụng suy gẫm, và lấy kinh Hoa Nghiêm này làm mục đích tu hành.
--
Đến khi nhà Chu hủy diệt Phật pháp, Sư ẩn cư nơi rừng sâu tại Tây Kì ở hang Tiện Tử, núi Chung Nam.

Sư sống nơi rừng sâu, thoát ngoài trần thế, đức hạnh trong sạch như suối, tiết tháo vững chắc như đá, và hành tung của Sư cũng như dấu chim, bóng cá.

Về sau, Sư mời pháp sư Tĩnh Uyên về ở chung nơi rừng vắng, chọn lấy yếu chỉ sâu kín, thể nhận được lý vi diệu, lại hành trì khổ hạnh, xả thân cho muôn vật.

Có lúc bày thân nơi cỏ rậm cho các loài ruồi muỗi đến đốt, máu chảy khắp thân, nhưng Sư không hề sợ hãi.

Có khi nằm như thây chết để thí thân cho loài hổ sói, mong chúng được sống mà mình xả thân để hợp bản nguyện, nhưng chúng đến ngửi mà không ăn.

Do đó, trong lòng luôn bất an, hận rằng chẳng tròn tâm nguyện.
--
Gặp lúc đất nước loạn lạc, đạo pháp mịt mờ, lệnh nước lại nghiêm ngặt, không cho tăng ni trốn thoát.

Bấy giờ, hơn 30 vị tăng danh đức ở Kinh đô lánh nạn tại Chung Nam, nhưng chưa có nơi an ổn.

Sư bèn mời tất cả các vị này đến ở yên tại một nơi sâu kín, chủ yếu ở các vùng bờ bãi, riêng mình thì lộ diện đi khất thực mà không sợ bị bắt giết.

Cho nên, thức ăn và y phục cung cấp cho chúng tăng đều đầy đủ, việc tu hành cũng không ngưng trệ.

“Thời loạn mới biết kẻ sĩ” đúng là Sư đó ư?

Lại có lệnh hễ ai bắt được một vị tăng sẽ được thưởng 10 xấp lụa.

Có người bằng lòng đi tìm và muốn bắt Sư.

Sư an ủi họ:
“Xem ông là người nghèo khổ, ta xin giao mạng sống cho ông để ông được thưởng”.

Thế là, cả hai cùng vào Kinh đô.

Bấy giờ, vua bảo người kia:
“Phép của nước ta nghiêm cấm đạo nhân ở trong nhân gian, ngươi lại không cho ở trong núi.

Nếu vậy thì họ sống nơi nào?

Trẫm thấy vị Đạo nhân này thần thái chí khí phi thường, không mong cầu được sống, nên thả ông ta vào núi, cũng không cần tra xét”.

Sau này, nhiều lần bị bắt nhưng Sư cũng được thả như trước.

Lúc đó, pháp sư Ái đang lánh nạn tại một nhà giàu có tên là Đỗ Ánh ở Nghĩa Cốc.

Ông đào một cái hang để giấu Pháp sư.

Sau khi được thả về, nghe tin này, Sư đến thăm Pháp sư.

Pháp sư nói:

- An Công thần thái chí khí hơn người, không sợ phép cấm nghiêm ngặt, có lẽ khó ai sánh kịp.

Sư thưa:

- “Nay tôi được Thoát Nạn là nhờ năng lực trì tụng KINH HOA NGHIÊM. Tất cả Sở Nguyện được Thành Tựu cũng đều nhờ năng lực trì tụng KINH HOA NGHIÊM này.”

Nhân đó, Sư thỉnh pháp sư Ái về núi, tự mình lo liệu mọi thứ.

Bấy giờ, người khắp nơi rầm rộ kéo về.
Sư cùng pháp sư Ái mở rộng trụ xứ.
Điều này được ghi đầy đủ trong Biệt truyện.
--
Đầu đời Tùy Văn Đế (Dương Kiên, 581-604), Phật giáo lại hưng thịnh.
Vua cho tìm khắp các vị tăng hiện còn và y theo phép xưa mà định đặt sắp xếp.

Lúc ấy, hơn 30 vị ở hang Tiện Tử vâng chiếu xuất gia trở lại và ở tại Quan tự[162].

Tuy Sư rất vui với việc Phật pháp phục hưng, nhưng không chạy theo danh lợi, vẫn sống chốn núi rừng.

Khi ấy, bên khe nước giữa 2 hang Tí Ngọ và Báo Lâm, có vị cư sĩ đào một cái hang, làm am thất mời Sư về ở.

Nơi này, vốn có một tảng đá lớn nằm ngay bên trên.
Sợ rơi xuống làm sụp am thất, nên Sư muốn dời tảng đá đi nơi khác.

Sư nghĩ: “Xin dời tảng đá đi nơi khác, đừng để hư hoại thất này”.

Bỗng nhiên, tảng đá lăn đi nơi khác.
Khiến ai nấy đều khen là lạ.

Sư bảo: “Đó là nhờ NĂNG LỰC CỦA KINH HOA NGHIÊM”.

Bên trái khe Thạch Bích phía Đông của am, có Tố đầu-đà là người hung dữ nhất xóm làng, quậy phá cùng khắp, hắn ta ngầm ghét Sư, nên toan tính giết hại.

Ông ta cùng với ba người bạn, cầm cung, mang kiếm đến sát hại.

Khi ông vừa giương cung lên bắn thì mũi tên không rời khỏi dây. Cung thì dính chặt nơi tay.
Mắt trợn ngược, lưỡi cứng đơ, cứ đứng thừ ra suốt đêm, chỉ biết kêu la mà thôi.

Nghe vậy, người đi đường loan truyền, xa gần đều tụ tập. Bấy giờ, người trong làng đến chí thành đảnh lễ, sám hối.

Sư bảo:
“Tôi hoàn toàn không biết. Chắc là do THẦN LỰC của Kinh HOA NGHIÊM.

Nếu muốn khỏi nạn, chỉ cần bảo ông ấy sám hối!”

Tố đầu-đà liền làm theo lời dạy, mới thoát khỏi.
----
Lại ở thôn Ngụy phía Tây của am, có ông Trương Huy sống bằng nghề trộm cướp.

Đêm nọ, ông ta vào thất của Sư, lén lấy bình dầu cúng Phật khoảng 5 lít, rồi vác trên lưng đi ra.

Vừa ra đến cửa, bỗng ông ta thấy đầu óc mờ mịt, như bị trói chặt, không thể cử động.

Thấy vậy, họ hàng, làng xóm đều đến tạ lỗi.

Sư bảo:

“Tôi không biết gì, có lẽ là do THẦN LỰC CỦA KINH HOA NGHIÊM.
Hãy bảo ông ta sám hối, trả lại bình dầu”.

Huy làm đúng theo lời dạy, mới thoát khỏi nạn.
--
Lại có một hôm, ông Trương Khanh ngụ tại phía Nam của am, đến trộm tiền của Sư, giấu vào tay áo.

Về đến nhà, ông ta lấy ra không được, lại bị cấm khẩu.

Thấy vậy, thân tộc, hàng xóm dẫn đến Sư, theo KINH HOA NGHIÊM mà sám hối, ông ta mới thoát nạn.
---
Tại thôn Trình Quách, có ông Trình Huy Hòa rất kính tin Tam bảo, thường đến chỗ Sư để nghe pháp yếu.

Có lần, ông ta bị bệnh nặng, chết đã 2 đêm, người ta bó thây, định đưa vào quan tài.

Bấy giờ, trên đường trở về từ huyện Hộ, Sư đến chùa Đức Hạnh ở phía Tây Nam, cách thôn ấy 5 dặm về phía Đông.

Từ xa, Sư gọi:

- Trình Huy Hòa, sao không ra đón ta?

Sư gọi nhiều lần như thế, những người làm ruộng thưa:
- Ông Hòa đã chết lâu rồi! Làm sao ra nghênh đón!

Sư bảo:
- Nói bậy, ta không tin!

Lát sau, Sư đến thôn ấy, lớn tiếng gọi, ông Hòa liền cử động.

Thấy thế, người thân đứng bên cạnh cắt đứt dây.

Sư bước vào nhà, lại gọi to lần nữa, ông Hòa liền ngồi dậy, chầm chậm bò đến Sư.

Sư bảo người nhà dẹp bỏ quan tài và những đồ tẩm liệm. Đồng thời, đặt tượng Phật lên cái sọt tre lật úp.

Rồi bảo ông Hòa nhiễu quanh.

Thế là ông Hòa bình phục như xưa, sống thêm khoảng 20 năm.

Sau đó, ông ta lại mắc bệnh, đến đảnh lễ sư, cầu cứu.

Sư bảo:

- Ông ấy đi đâu thì mặc. Ta không cần biết!

Sư vừa dứt lời. Ông ấy liền mạng chung.

Từ đó, Sư được nhiều người biết đến, xin theo học đạo rất đông.
Sư mở phước hội[163], thường có nhiều điềm cảm ứng.
--
Lại nữa, tại thôn Bạch phía Bắc ao Cô Minh, có một bà lão bị bệnh nằm liệt giường, câm cả trăm ngày, nên ra dấu cho con là muốn gặp Sư.

Con hiểu ý mẹ, thỉnh Sư về nhà.

Vừa trông thấy Sư, người mẹ bất giác bước xuống đảnh lễ, thưa hỏi, tới lui giống như ngày thường.

Ngay đó, bà liền khỏi bệnh.
--
Bấy giờ, danh tiếng Sư càng vang xa, xóm làng tụ tập, trỗi nhạc, rao khắp thôn xóm, muốn mở đại hội bố thí.

Tại thôn nọ, gia đình ông Bạch Di Sanh vô cùng nghèo khó, lại có 4 người con gái.

Người vợ chỉ được một tấm vải thô quấn quanh người, các người con gái thì không mảnh vải che thân.

Riêng người con cả tên là HOA NGHIÊM, tuổi đã 20, có được 2 thước vải thô, định đem cúng dường.

Lúc đó, Sư dẫn những người trong thôn, lần lượt đến nhà cô ta, nhưng xót thương cho cảnh nghèo khổ, mọi người đi ngang mà không vào nhà.

Cô ta suy nghĩ:
“Do nghèo khổ, nên ta không dự hội được. Nay lại không làm thiện, đời sau nghèo khổ gấp bội phần”.

Nghĩ thế xong, đi xin đồ vật khắp nơi, nhưng không ai cho cả, cô ta ngữa mặt lên trời than khóc.

Bấy giờ, thấy một nắm rơm dùng để bít lỗ trống trong nhà, cô kéo lấy, giũ ra thì được hơn 10 hạt lúa, rồi bóc thành gạo.

Cô đem hơn 10 hạt gạo này cùng với mảnh vải trước đây, vui vẻ đến phước hội;
Nhưng vì thân không y phục, nên phải chờ đến đêm tối, cô mới rón rén đi đến chỗ cúng dường.

Đến nơi, từ xa, cô ném mảnh vải vào trong đống đồ bố thí, riêng 10 hạt gạo xin dâng để nấu cơm.

Ngay đó, cô phát nguyện:

“Nghiệp khốn cùng của con là do gieo trồng từ nhiều đời trước.

Nghèo cùng mà hành bố thí là để mong cầu quả báo đời sau.

Nay đem 10 hạt gạo này bỏ vào nồi, với tâm chí thành, nguyện cho con thoát cảnh nghèo khổ.

Nếu cơm nấu xong biến thành màu vàng thì đúng như lời nguyện.

Nếu không cảm ứng thì thân này biết làm sao?”

Phát nguyện xong, cô gạt lệ trở về.

Thế là cả một nồi cơm 5 thạch[164] đều biến thành màu vàng.

Đại chúng thấy thế vô cùng kinh ngạc, nhưng không rõ lý do.

Họ tìm hỏi khắp nơi.
Sư bảo:

“Đó là do nguyện lực của con gái nhà Bạch Di Sanh”.

Lúc đó, trong phước hội thu được 10 hộc[165] lúa, liền đem trợ giúp cho cô.

Về sau, Sư đem việc này trình lên vua, vua cho phép độ cho cô Hoa Nghiêm xuất gia, vào chùa trì KINH HOA NGHIÊM cho đến trọn đời.
--
Tuy Sư ở ẩn, nhưng thường cứu người giúp vật.

Mỗi năm, vào mùa Xuân và Thu, xóm làng đều có cúng tế, sanh vật bị giết quá nhiều, Sư đi khắp nơi để chuộc các con vật.

Đồng thời khuyến hóa dân chúng thực hành tín nghĩa, đạo đức, làm cho 9/10 hội cúng tế trong thôn không sát sanh, hại vật.
--
Lần nọ, trong thôn bên cạnh thất của Sư, người dân bắt 3 con heo, định mổ thịt.

Nghe tin này, Sư đến chuộc lại.
Người dân sợ không giết được, nên ra giá 10.000 lượng.

Sư bảo: “Bần đạo hiện có 3.000 lượng, có chịu bán không?”
Mọi người không đồng ý, lại còn phẫn nộ.

Bỗng có một đứa bé quấn tấm da dê, đi đến tế đàn giúp Sư mua heo.

Thấy cảnh tranh cãi, đứa bé xin rượu, vừa ăn uống vừa nhảy múa, phát ra ánh sáng rực rỡ xoay chuyển quanh thân, khiến những người tại tế đàn đều lóa mắt.

Phút chốc, đứa bé biến mất, nhưng không rõ đi đâu.

Sau đó, Sư cầm dao cắt thịt mình, rồi bảo:
“Người và vật cũng đều là thịt.
Nhưng heo ăn những thứ nhơ uế, mà các ông lại ăn thịt nó, còn con người ăn cơm, lẽ nào không cao quý hơn sao?”

Nghe Sư nói vậy, họ đồng loạt thả heo.

Sau khi được cứu thoát, heo nhiễu quanh Sư 3 vòng, mũi miệng chạm vào Sư để tỏ ý vui mừng cảm tạ.

Vì vậy, cho đến nay, trong vòng 50 dặm phía Tây Nam Kinh đô, các loài heo gà đều không bị giết để cúng tế.

Những chuyện Sư hành từ khuyến thiện có cảm ứng đại loại đều như thế.
----
Sư tính vốn thành tín, ưa thích đọc KINH HOA NGHIÊM.
Suốt đời chỉ một bát ba y, trải bao năm tháng lại càng thêm tinh tấn.

Vào năm Khai Hoàng thứ 8 (588), Tùy Văn đế nhiều lần ban sắc mời Sư vào Kinh đô để dạy cho Hoàng thái tử[166].

Khi ấy, Công chúa trưởng xây dựng chùa Tĩnh Pháp và thỉnh Sư về trụ trì.

Tuy mang danh ở chốn kinh thành, nhưng Sư vẫn thường sống nơi vùng rừng núi.

Vào ngày 5 tháng 11 năm Đại Nghiệp thứ 5 (609), Sư viên tịch tại chùa Tĩnh Pháp, thọ 80 tuổi.

Di hài sư được an táng tại núi Chung Nam.
Sau đó xây tháp tôn thờ bên cạnh chùa Chí Tướng.
------

“TRUYỆN KÝ KINH HOA NGHIÊM”
-Sa môn Pháp Tạng
-Dịch và chú thích: Thiện Thuận- Quảng An-Viên Châu-Ngộ Bổn


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.62 khách