Bữa sau, giờ ngọ khai mào,
Hoàng nam, Xa Nặc tiêu dao ra đền,
Ấn vua nhìn thấy ở trên,
Quân canh vội mở chốt then cửa ngoài.
Khách thương một vị thảnh thơi,
Một thầy thơ ký gót hài theo sau:
Đạt Đa, Xa Nặc, kẻ hầu,
Hai người cải dạng, ai đâu mà dè?
Trên đường thẳng tới đề huề,
Xen cùng bá tánh chợ quê đủ mùi.
Thị thành cảnh vật buồn vui,
Thầy trò thấy đủ lần hồi như đây:
Đường đi xinh lịch giải bày,
Kẻ qua, người lại, rù rì, xôn xao.
Những người buôn bán ngồi vào,
Đậu, mè, gia vị sắp bao quanh mình,
Khách mua khi đã thuận tình,
Lần trong dãy thắt xuất trình đồng ngân.
Nữa là tính thiệt đo hơn,
Bên thì nói thách, bên lần giảm đi.
Tiếng la eo óc chốn ni,
Khiến người nép tránh cho đây qua lề.
Bánh xe bằng đá nặng nề,
Bò to chậm bước, đồ kê gập ghềnh.
Những người khiêng kiệu co quanh,
Vừa đi vừa hát ân tình, ca dao.
Những phu đội vác bôn đào,
Cổ to, lưng rộng, dạt dào mồ hôi.
Mấy trang nội trợ lui cui,
Ôm ghè từ giếng mà lui về nhà.
Nhiều cô thiếu phụ nữa là,
Bồng con dưới nách hết ra lại vào.
Hàng bánh mứt, ruồi xôn xao,
Kìa người thợ dệt rạt rào đưa thoi.
Cối xay nghiến bạt, bột lòi,
Chó đi thơ thẩn kiếm moi đồ thừa.
Thợ làm binh khí sớm trưa,
Tạo nên áo giáp phòng ngừa chiến tranh.
Thợ rèn đốt lửa ngọn xanh,
Nướng cây cuốc sắt, trui thanh giáo dài.
Trong trường, giáo thọ giảng bài,
Trẻ con họ Thích hợp lời ca ngâm,
Ngồi vòng bán nguyệt, nghiêm thâm,
Học qua lịch sử cả trăm Thánh Thần.
Mấy người thợ nhuộm áo quần,
Đem phơi ngoài nắng đủ ngần trắng xanh.
Quân nhân đương lúc bộ hành,
Thuẫn, gươm khua động cạch canh đó mà.
Những người chăn giữ lạc đà,
Ngồi trên cổ bướu, lại qua vóc mình.
Bà la môn nết hạnh lành,
Sát Lỵ, Phệ Xá với ngành Thủ La;
Bốn hàng ấy ở nước nhà,
Tu hành, trị quốc, thương gia, ruộng vườn.
Ở đây, quần chúng chen bươn,
Nhìn nhà dụ dẫn phô trương độc xà;
Người nầy nói chuyện vui pha,
Cườm tay để rắn quấn ba bảy vòng;
Kèn bầu, người thổi dài dòng,
Khiến con rắn dữ vẫy vùng múa men.
Đàng kia, một đám trống kèn,
Tàn tơ, ngựa đẹp, dân hiền vu qui,
Trước thần, hoa quả sẵn bày,
Nàng nầy cầu tự hoặc vì viễn phu.
Xa xa, dãy tiệm đồng thau,
Thợ đem đập nắn đèn dầu, nồi niêu,
Thầy trò Hoàng tử dắt dìu,
Dưới tường chùa miễu dài theo cửa đền;
Cuối thành quách, có rạch bên,
Hai người qua đó, bước lên nhịp cầu.
oOo
Bên đường bỗng có tiếng sầu:
"Quí ngài tế độ, đỡ đầu tôi lên;
Ôi thôi! cứu vớt một phen,
Không thì tôi chết ở trên vệ đường!"
Ấy người Bệnh dịch thảm thương,
Rẩy run, lăn lộn, bụi vương áo quần;
Trên mình nổi mụt đỏ rần,
Mồ hôi khắp trán, miệng lần rút co;
Đương cơn nguy kịch đáng lo,
Mắt thì lơ láo, hẹn hò giờ đi!
Cỏ bên lộ, cố bám ghì,
Gượng mà chỗi dậy, rồi thì té ngay;
Tứ chi run rẩy ghê thay,
Miệng đành kêu thốt: "Ai hay cứu dùm!".
Đạt Đa chạy tới, lum khum,
Đỡ người bạc phận, mắt trùm tình yêu.
Đầu người ấp gối nâng niu(10),
Bóp xoa êm dịu, thấy chiều tỉnh tươi.
Hỏi thăm: "Có bớt chăng người?
Bệnh chi mang lấy mà ngươi té nhào?
"Nầy Xa Nặc! bởi lẽ nào,
Người kia hồi hộp, kêu gào, rên la?
Tại sao va muốn nói ra,
Lưỡi đơ miệng cứng, thật là thảm thương?"
Viên ngự giả đáp tỏ tường :
"Tâu Ngài! kẻ ấy đã vương Bệnh rồi.
Bất hòa, tứ đại rối nùi,
Máu me như thể nước sôi, lửa nồng.
Trái tim xưa nhảy đều đồng,
Bây giờ lúc chậm, lúc vùng đập lia,
Gân như dây ná đứt lìa,
Nhượng chân, thận, cổ hết bề cử đương.
Sắc duyên, vui vẻ, tráng cường,
Bây giờ tản mác xa đường còn chi!
Lúc nầy cơn bệnh phát nguy,
Kìa người mó máy như truy bệnh tình.
Đỏ lòm, cặp mắt liếc quanh,
Nghiến răng, nghẹt thở như mình ngộp hơi.
Người kia muốn chết rồi đời,
Đương khi hành bệnh, thác thời sao xong!
Bệnh còn sát hại gân trong,
Tứ chi hết cảm, bệnh hòng thoát ly,
Rồi tầm chốn khác hành vi;
Nhưng Ngài đừng có ôm chi người nầy,
Bệnh tình có thể nhiễm lây,
E Ngài chẳng khỏi vướng dây lan truyền".
Đông cung tiếp tục vỗ khuyên,
Nhưng Ngài cũng hỏi cơ duyên cho tường:
"Há còn nhiều bệnh đáng thương?
Ta đây có thể cũng vương chớ gì?"
Chàng Xa Nặc đáp tức thì:
"Mọi người đều phải chứng nầy hoặc kia:
Tên ghim, dao búa chém lìa,
Yếu đau, ghẻ lác, đằm đìa phong đơn;
Có người nóng lạnh từng cơn.
Hoặc đau kiết lỵ, vân vân mọi đường."
Đông cung mới hỏi rõ ràng:
"Đương khi bệnh đến, mình thường thấy chăng?"
Chàng Xa Nặc ứng đáp rằng:
"Bệnh như rắn ẩn, buông phăng cắn mình;
Lại như cọp dữ đang rình,
Từ trong bụi rậm thình lình phóng ra;
Bệnh như lằn chớp trên xa,
Đánh người bên nọ, dung tha bên nầy".
"- Người đời há sợ hằng ngày?"
"- Tâu lên Điện hạ! như vầy chớ sao?"
"- Thế thì không kẻ tự hào:
Đêm nay ngon giấc, thức vào ngày mai?"
"- Bạch Ngài! thật vậy chẳng sai,
Không ai dám chắc tương lai của mình".
"- Biết bao đau đớn chực rình,
Thân hư, tâm khổ, rồi sinh cái Già!"
"- Nếu mình sống được lâu xa".
"- Ví bằng thiếu sức lướt qua bệnh trầm,
Hoặc người chẳng muốn cự cầm,
Kẻ mong kết thúc cái mầm khổ đau;
Hay người chỉ biết rên sầu,
Cũng như kẻ bệnh kê đầu tay ta;
Hay người tuổi đã quá già,
Đương tình cảnh ấy, dứt ra thế nào?"
"Bạch Ngài! đành chết chớ sao!"
"- Thế là cái Chết bước vào phải không?"
"- Bạch Ngài! chết đến đau cùng,
Bất kỳ giờ khắc, xứ vùng đâu đâu.
Kẻ nầy còn tới bạc đầu,
Phần đông thống khổ, yếu đau, gầy mòn;
Nhưng rồi ai cũng chẳng còn,
Kìa xem cái Chết đương lòn bước qua!"
CHÚ THÍCH:
(10) Thái tử ôm đầu người bệnh kê lên đầu gối của Ngài.
oOo